11. Niệm Phật Thế Nào Để Vãng Sanh Bất Thối Thành Phật? Hộ Niệm Thế Nào Mới Đúng Như Lý – Như Pháp? Hộ Niệm Yếu Lục

Share on facebook
Share on twitter

(Dịch từ tài liệu Tịnh Tông Học Hội Úc Châu)
I. NHỮNG YÊU CẦU CĂN BẢN CỦA ĐOÀN VIÊN TRỢ NIỆM:
1. Không phan duyên trợ niệm. Người trợ niệm sau khi nhận được thông báo, liền nhiếp tâm niệm Phật, khẩn thiết chí thành, giữ thân tâm nghiêm chỉnh. Từ lúc đi cho đến lúc về đến nhà không được nói nhảm, nói đùa giỡn.
2. Nhóm trợ niệm (không bao gồm gia quyến của người bệnh), mỗi nhóm từ 4 đến 5 người, chia phiên ra niệm.
3. Thời gian trợ niệm duy trì ít nhất từ 8 đến 12 giờ đồng hồ, nếu trợ niệm đến 24 giờ thì càng tốt.
4. Khi trợ niệm tâm nhất định phải chuyên nhất. Sinh tử sự đại. Chúng ta vì người bệnh trợ niệm cũng giống như chính mình muốn được vãng sanh vậy. Phải quán nghĩ như vậy. Trong lúc trợ niệm, vừa niệm Phật vừa quán tưởng Phật A Di Đà, Tây-Phương Tam Thánh đến tiếp dẫn người vãng sanh. Cần phải có niềm tin mạnh mẽ như vậy.
5. Người trợ niệm nhất định phải cách xa người vãng
sanh 2 mét. Không được đi qua lại trong phạm vi hai mét, càng không được kinh hành.
6. Khi trợ niệm không được ho, tằng hắng, ách-xì… để thần thức người ra đi khỏi bị khuấy nhiễu.
7. Trợ niệm cho bệnh nhân phải hỏi họ bình thường thích niệm Phật như thế nào. Nếu bệnh nhân không nói được, chúng ta nên niệm Phật theo trung đạo, nghĩa là không nhanh, không chậm, không cao, không thấp. Mỗi chữ mỗi câu phân minh rõ ràng, khiến người bệnh nghe rõ từng câu thâm nhập vào trong tâm. Niệm Phật như vậy mới gọi là chân chánh trợ niệm.
8. Trong lúc trợ niệm, muốn uống nước xin hãy ra ngoài, nếu không thì dễ làm phân tâm người khác, và làm như vậy cũng là thái độ cung kính người vãng sanh.
9. Sau khi trợ niệm xong, không được nhận bất cứ tiền thù lao nào, dù là tiền xe, tiền trà nước…
10. Trước khi đi trợ niệm nên chuẩn bị:
• Mền hoặc mền quang minh (mền vãng sanh).
• Tượng Phật A-Di-Đà.
• Máy niệm Phật 4 chữ (loại tiếng niệm không quá nhanh quá chậm).
• Tờ thông báo của ban trợ niệm (tờ lớn, chữ lớn).
• Chuẩn bị trà nước.
II. THỨ TỰ KHI TRỢ NIỆM:
1. Trước tiên phải bàn thảo với gia quyến của người bệnh để có thể phối hợp với nhau tốt đẹp, hầu hoàn thành việc trợ niệm được viên mãn:

a. Hỏi tên họ của bệnh nhân.
b. Bàn một số vấn đề cần thiết và nêu những yêu cầu của ban trợ niệm. (Xem ở trang gia quyến giúp người bệnh an toàn vãng sanh).
1. Khi đắp mền cần 2 người cầm 2 đầu nhẹ nhàng kéo lên khỏi ngực, chí thành niệm chú vãng sanh 3 lần, kế tiếp chí thành niệm Phật. Phải nhất tâm chuyên niệm Phật hiệu.
2. Kiểm soát, sắp xếp hoàn cảnh chung quanh:
. Đặt hình Phật nơi bệnh nhân có thể nhìn thấy.
a. Người hộ niệm hoặc người nhà của bệnh nhân nhất định ngồi hay đứng cách bệnh nhân khoảng 2 mét, không được đi qua lại trong vòng 2 mét đó. Người bệnh sau khi tắt thở, da thịt của họ mỏng manh như lông chim, như con rùa lột mai, nếu đi lại trong vòng 2 mét sẽ khiến họ đau đớn, đau khổ như bị dao xẻ thịt vậy.
b. Kiểm soát lại xem văn thông báo và văn hồi hướng đã dán xong chưa, không khí trong phòng có thoáng mát không! Nếu mùa hè thì mở quạt máy, không được thổi thẳng vào người bệnh (hoặc người đã vãng sanh).
c. Tránh những âm thanh quấy nhiễu (như điện thoại, người nhà bàn tán thảo luận…)
d. Trợ niệm 8 đến 12 giờ đồng hồ (hoặc 24 giờ), xong tụng kinh A-Di-Đà, hồi hướng. Xem như công việc trợ niệm kết thúc viên mãn.
3. Khai thị trợ niệm:
. Bất luận là người đó đã tắt thở hay chưa, đều phải khai thị. Văn khai thị như sau:
A-Di-Đà Phật!
Kính thưa cư sĩ (đại đức, Bồ Tát) …………..
(tên họ) ………………………………………………….
(Bác, Cô…) nên buông xả vạn duyên nhất tâm cầu sanh Tịnh độ nơi Tây-Phương Cực- Lạc. Con cháu tự có phước phần riêng của họ. Thế gian này rất là khổ, không nên lưu luyến. Thế giới Cực Lạc của Phật A-Di-Đà có bảy hàng cây báu, tám loại nước công đức, đất trải bằng vàng, vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ không thể diễn tả hết được. (Bác, Cô) nên lập tức phát nguyện đến thế giới Cực Lạc, một lòng cầu Phật từ bi đến tiếp dẫn (Bác, Cô) vãng sanh Tây-Phương. Duy chỉ gặp Phật A- Di-Đà hoặc thấy ánh hào quang màu vàng (kim sắc) ôn hòa của Tây-Phương Tam Thánh (Bác, Cô) mới theo các Ngài đi. Ngoài ra, khi thấy bất cứ cảnh tượng nào khác, tuyệt đối đừng để ý đến. Như vậy (Bác, Cô) nhất định được vãng sanh về Tây-Phương. Bây giờ chúng tôi niệm Phật, xin (Bác, Cô) hãy cùng chúng tôi niệm Phật.
b. Sau khi khai thị, rắc bột tro dưới đất chung quanh giường người bệnh để tránh kiến, trùng… bò lên thân, làm chướng ngại việc niệm Phật vãng sanh của họ.
c. Bắt đầu trợ niệm: tiếng niệm Phật nên giữ trung

đạo, không nhanh, không chậm, không lớn, không nhỏ, từng tiếng rõ ràng.
III. NGUYÊN TẮC:
(Gia quyến bệnh nhân cần giữ gìn để giúp người bệnh an toàn Vãng Sanh)
1. Gia quyến không được khóc lóc trước mặt bệnh nhân, không được hỏi thăm vấn đề nóng lạnh để tránh chướng ngại việc niệm Phật. Càng không được sờ mó, di động thân thể bệnh nhân mà khiến họ bị đau đớn. Phải biết người mới mất đau đớn như con rùa bị lột mai. Trong giây phút sanh tử này, tuyệt đối không tăng thêm những tình cảm đau buồn và tạo sự đau đớn trên thể xác của họ. Chỉ duy nhất một lòng vì họ niệm Phật, như vậy mới thật sự là hiếu thảo và quan tâm thương yêu.
Trước và sau khi mất, ít nhất phải niệm Phật không gián đoạn 12 giờ đồng hồ.
• Nếu bệnh nhân ở bệnh viện, khi biết bệnh tình không thể cứu chữa, hãy nên lập tức ngưng ngay, nhanh chóng xuất viện, đồng thời phải liên lạc với ban trợ niệm, về nhà tìm một nơi yên tĩnh để sớm bắt đầu công việc niệm Phật. Trong lúc di động người vãng sanh (bất luận họ đã tắt thở hay chưa) đều phải thực hiện 2 việc sau:
• Ngay lúc này lớn tiếng niệm Phật.
• Mời một người trong gia quyến của họ nói bên tai họ rằng: Chúng tôi (con) di chuyển thân thể của (Bác, Cô…). (Bác, Cô…) phải giữ chánh niệm. Dốc sức niệm Phật nha (Bác, Cô…).
– Chúng ta bây giờ lên xe.
• Bây giờ chúng ta xuống xe.
• Chúng ta đã về tới nhà.
Phải nhắc nhở như thế và luôn thức tỉnh họ niệm Phật. Sau khi về tới nhà hoặc an trí xong thì đắp mền và khai thị. Sau đó không được lại gần và phải ngồi cách xa họ hai mét, chú tâm niệm Phật.
2. Có thể mời gia quyến cùng nhau trợ niệm, đồng thời cử ra một người giúp giải quyết mọi thứ chướng ngại trong khi trợ niệm. Bởi vì người nhà mới là then chốt, BHN chỉ là ngoại duyên. Người sắp vãng sanh rất dễ tiếp nhận sự quan hoài của người trong gia đình. Mọi người đều đồng tâm hiệp lực niệm Phật mới có thể cảm ứng với nguyện lực của Phật A-Di-Đà và Ngài phóng từ quang gia hộ làm cho người sắp vãng sanh liền được lợi ích to lớn. Do đó trong thời gian trợ niệm, người nhà nhất định không được rời khỏi. Từ 8 đến 12 giờ sau mới được làm những việc khác.
3. Người nhà hãy tạm gác mọi việc để dốc lòng niệm Phật, nếu có việc cần phải giải quyết, thì chỉ cử một người đi làm. Gia quyến nên tự sắp xếp luân phiên nhau niệm Phật cùng với Ban trợ niệm. Điều này vô cùng quan trọng.
4. Khi chưa tắt thở, trong vòng 12 giờ trợ niệm, nên mời người nào mà bình thường hay thân cận với người bệnh, cứ khoảng 1 đến 2 tiếng hoặc khi phát hiện họ lâm vào trạng thái dị thường, thì nhắc nhở họ tỉnh thức và giữ chánh niệm niệm Phật. Văn nhắc nhở như sau:
(Bác, Cô) hãy mau niệm Phật. Khi Phật A-Di- Đà tới, mau mau theo Ngài mà đi.

5. Nếu trong lúc trợ niệm, thấy người bệnh có vẻ mỏi, chán niệm Phật hoặc đau đớn giãy giụa, hoặc họ thấy Oan Gia Trái Chủ đến đòi mạng… Đây chính là nghiệp chướng hiện tiền, chướng ngại vãng sanh Cực-Lạc. Lúc này phải khẩn thiết đối trước hình Phật, vì Oan Gia Trái Chủ của họ mà khai thị.
6. Những người mà người bệnh ghét, hoặc không ưa, thì chớ để họ đến gặp mặt, hầu tránh cho người bệnh sanh tâm sân giận mà bị đọa vào ba đường ác.
7. Không nên gấp rút lau mình, thay quần áo, rút ống kim… cho bệnh nhân. Những hành vi này làm tổn thương đến bệnh nhân một cách nghiêm trọng. Cũng không được tự tiện sờ mó vào người bệnh nhân. Phải chờ sau 12 đến 24 giờ mới được làm những thứ này.
8. Nếu tắt thở ở bệnh viện, chớ bao giờ vội đưa vào phòng lạnh hoặc chích thuốc chống thân bị rã, để tránh cho người ra đi cái cảnh đau đớn giống như bị đưa vào “địa ngục băng hàn”. Nếu sợ có mùi hôi, có thể đốt nhang trầm, trà hoặc để nước đá lạnh, tuy nhiên, đừng để nước đá quá gần thân xác người ra đi. Hỏa thiêu hoặc đưa vào phòng lạnh phải sau 7 ngày, vì e rằng có việc hồi dương xảy ra. Trừ phi bị chết vì ngoại thương hoặc bệnh nghiêm trọng.
9. Khi làm tang lễ, đãi khách thì toàn bộ nên dùng chay. Nếu sát sanh để tế lễ sẽ tạo thêm nghiệp tội cho người ra đi.
10. Trong thời gian tang sự, phải cữ việc vợ chồng, giữ ngũ giới thập thiện, tuyệt đối cấm việc sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu.
11. Gia quyến nên lấy việc mỗi ngày niệm Phật hồi hướng làm điều thiết thực. Làm vậy sẽ được công đức vô cùng thù thắng, âm dương đều được lợi.
12. Trong 49 ngày gia quyến nên hoàn toàn dùng chay. Nếu không thể được thì trong 49 ngày cố gắng không nấu thức ăn mặn trong nhà. Phải biết tiết kiệm phước, không được có bất cứ hành vi phung phí gạo, rau… Phải vì người vãng sanh mà tích phước, làm việc công đức như: cúng dường Tam Bảo, phóng sanh, in kinh, cứu giúp người nghèo khổ… Đem những công đức này hồi hướng cho người ra đi, họ sẽ được lợi ích thù thắng không gì sánh bằng.
13. Trước khi chôn cất hoặc thiêu:
• Trước bàn Phật cần cúng hoa tươi, trái cây, nước trắng.
• Trước bàn Linh mỗi ngày cúng cơm 3 lần (thức ăn chay).
• Sáng: cháo, thức ăn bằng đậu hũ.
• Trưa và tối: một chén cơm, một đôi đũa.
Một mâm để 6 món thức ăn, một ly nước trong. Trái cây thì thay mỗi ngày.
• Sau khi chôn cất xong, không cần phải cúng cơm mỗi ngày 3 lần.
• Ngày đi chôn (hoặc thiêu):
• Trước bàn Phật thì cúng hoa tươi, nước và trái cây (ngày này phải thay trái cây mới). Cúng 4 loại trái cây trong một đĩa hoặc mâm lớn, một chén cơm nhỏ, 6 chén nhỏ thức ăn, 1 ly nước trắng.
• Trước bàn Linh thì cúng 1 chén cơm, 1 đôi đũa, 6

chén nhỏ thức ăn, 1 ly nước trắng, hoa tươi, 4 loại trái cây trong một đĩa hoặc mâm trung.
• Trước bàn để cúng tế thì đặt 12 đĩa thức ăn, mỗi bên để một rổ trái cây.
• Tụng kinh A Di Đà, hồi hướng. (Nếu không thỉnh được pháp sư, cư sĩ tại gia có thể làm thế).
14. Trong 7 thất (49 ngày):
• Mỗi thất: Sáng từ 10:00 đến 11:00 tụng kinh A Di Đà, niệm trăm tiếng Phật hiệu, cúng ngọ, hồi hướng. (Phần cúng ngọ có thể chiếu theo cách cúng ở ngày đi chôn cất).
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
“Hộ Niệm cứu độ người được Vãng Sanh Tịnh Độ công đức vô lượng vô biên”

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
• Nguyện đem công đức này:
• Hồi hướng cho thập phương pháp giới chúng sanh, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ, cầu nguyện thế giới hoà bình, tiêu tai giải nạn.
• Hồi hướng cho lịch đại kiếp số Oán Thân Trái Chủ, tất cả chúng sanh đã bị con não loạn hoặc giết hại vì bất cứ lý do gì. Hôm nay con xin thành tâm sám hối. Nguyện cầu chư vị xoá bỏ hận thù, hộ pháp cho nhau, đồng lòng niệm Phật, đồng nguyện vãng sanh, đồng sanh Cực Lạc.
• Hồi hướng cho thân bằng quyến thuộc trong vô lượng kiếp, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào, đều được cảm ứng, phát lòng Tín-Nguyện-Hạnh Niệm Phật, siêu sanh Tịnh-Độ.
• Hồi hướng cho tất cả thân bằng quyến thuộc đang hiện tiền, nghiệp chướng tiêu trừ, phước lành tăng trưởng, phát khởi tín tâm, niệm Phật cầu sanh Tịnh- Độ, và đều được thành tựu.
• Hồi hướng cho tất cả chúng sanh có duyên hay không có duyên với con, sau cùng đều được vãng sanh Cực Lạc Quốc.
• Hồi hướng về Tây-Phương trang nghiêm Tịnh-Độ.
• Nguyện khi con lâm chung, không còn chướng ngại, biết trước ngày giờ, tâm hồn tỉnh táo, thấy A-Di-Đà Phật, Quán-Âm, Thế-Chí, Thanh-Tịnh-Đại-Hải-Chúng, tướng hảo quang minh, hiện thân tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.

• Nguyện hoa nở thấy Phật ngộ Vô-Sanh, nguyện chứng đắc Vô-Thượng Bồ-Đề, nguyện độ vô biên chúng sanh trong mười phương pháp giới vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, viên thành Phật đạo.
NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

Ẩn bớt

Mong tất cả chư vị cùng hiểu thấu vấn đề và nhận thức ra rằng, pháp Niệm-Phật thật sự thù thắng, rất hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Còn điểm mạnh của pháp Hộ-Niệm là hướng dẫn chúng ta thực hiện pháp Niệm-Phật một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác và kịp thời hóa giải những ách nạn, vượt qua chướng ngại để đi về Tây-Phương Cực-Lạc. Xin chư vị cố gắng giữ thật chặt cơ duyên này để vãng sanh thành tựu đạo quả.

– Cư Sĩ Diệu Âm Minh Trị –