Đừng Tự Đoạn Mất Con Đường Giải Thoát (Khuyên Người Niệm Phật 59)

Share on facebook
Share on twitter

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT
Tác Giả: Cư sĩ Diệu Âm
Phật lịch năm 2547 / Dương lịch năm 2003

Đừng Tự Đoạn Mất Con Đường Giải Thoát

Đạo hữu Diệu Nhàn!

 

Nhận được thư Diệu Nhàn, không có thời giờ viết thư trả lời, Diệu Âm đành phải gởi mấy băng giảng kinh của HT Tịnh-Không cho đạo hữu coi trước, kèm theo đó có cuộn “Tự tại vãng sanh”, quay lại cụ Ngụy Quốc Hưng vãng sanh vào tháng 2/2003. Đạo hữu cố gắng dành thời giờ coi qua. Cuộc vãng sanh này bất khả tư nghì! Diệu Nhàn nên cố gắng sang thêm để cúng dường nhiều người cùng xem. Xây dựng lòng tin Phật pháp cho họ, giúp nhiều người phát tâm niệm Phật, công đức này lớn lắm đó.

 

Tự tại vãng sanh, danh từ tuy đơn sơ, nhưng trên đời người nào thực hiện được chuyện này thì hưởng được một phước báu vô cùng vô tận, cái phước thành tựu đạo Bồ-đề, cái phước được làm Phật, cái phước mà một chúng sanh có thể phải tu vô lượng kiếp mới có được, chứ không phải tầm thường!

 

Xem cuộn “Tự tại vãng sanh”, mới thấy Phật pháp nhiệm mầu! Trước đây có cuộn “Hoa khai kiến Phật”, ta đã thấy sự vi diệu của câu Phật hiệu, nay xem thêm “Tự tại vãng sanh” lại thấy càng vi diệu hơn. Năm 2001, tôi đi qua Honolulu, có biết qua một cuộn phim khác quay lại cuộc vãng sanh của một vị cư sĩ trẻ vãng sanh cũng thật là vi diệu. Nhưng vì thời gian lưu lại quá ít, không kịp xin bản lưu, chứ nếu được thì chúng ta có thêm những chứng liệu vô giá về sự vãng sanh Tây-phương Cực-lạc. Người con Phật chúng ta phải khẳng định rằng lời Phật nói đúng sự thật, có nhiều sự chứng minh cụ thể, chứ không phải là những loại “Quyền Thuyết” đâu.

 

Thông thường chúng ta biết rằng, muốn có ngày chứng quả vị Phật một chúng sanh phải tu trải qua vô lượng kiếp thời gian chứ không phải đơn giản. Quá khó, quá khó! Nhưng trong kinh “A-di-đà”, Phật dạy chỉ cần bảy ngày niệm Phật nhất tâm là thành tựu đạo quả.

 

Nhất tâm bất loạn, tâm bất điên đảo, tự tại vãng sanh thì gọi là “Chánh niệm vãng sanh”. Trong kinh “Vô lượng thọ” Phật lại nói chỉ cần 10 câu Phật hiệu trước lúc lâm chung cũng được vãng sanh. Đây là trường hợp hạ phẩm, tương tự như trong Quán Kinh nói, người trong đời có làm ác nghiệp, lúc lâm chung bị cuồng loạn, nhưng may mắn gặp được thiện trí thức nhắc nhở, tin tưởng phát nguyện vãng sanh, niệm Phật một tiếng hoặc mười tiếng mà được vãng sanh, gọi là “Cuồng loạn vãng sanh”. “Vô ký vãng sanh” là người đã phát tín tâm quy y, niệm Phật, đến lúc lâm chung tuy tâm thần suy nhược không thể niệm Phật được, gọi là “vô ký”, (không thiện không ác). Nhưng nhờ công đức niệm Phật trước đây, cũng được vãng sanh. Còn “Ý niệm vãng sanh” là người có niệm Phật, lúc lâm chung vì sức quá yếu không thể niệm ra tiếng, nhưng niệm Phật thầm trong tâm cũng được vãng sanh. Tất cả bốn chủng loại vãng sanh đều vượt qua tam giới lục đạo, vãng sanh về cõi Tây-phương, một đời bất thối thành Phật. Sự việc này quả thật là kỳ diệu!

 

Như vậy, nếu nói lâu thì vô lượng kiếp cũng chưa chắc sẽ thành Phật! Nhưng nếu muốn mau thì một đời này sẽ được hoa khai kiến Phật ngộ Vô-Sanh. Lâu hay mau tùy theo cái tâm mình có muốn về với Phật hay không, chứ không ở đâu xa cả! Muốn mau thành Phật thì trong tâm phải có Phật, nên nương vào Phật, nên tu theo con đường nhị lực, phải biết cái năng lực hộ niệm bất khả tư nghì của chư Phật mười phương. Sự gia trì của 48 lời đại nguyện của A-di-đà Phật thực sự dư sức đưa một chúng sanh phàm phu thoát vòng sanh tử. Còn nói về thời gian là nói đến pháp hữu vi. Pháp hữu vi thì như mộng huyễn! Vạn pháp giai không, thì thời gian xét cho cùng cũng vẫn là không, không dài không ngắn, không lâu không mau! Dài vô lượng kiếp hay ngắn như một niệm vẫn do tâm mà ra!

 

Thành Phật là thành chính cái tâm của mình, trở về được với chân tâm tự tánh thì thành Phật, xa lìa chơn tâm tự tánh thì chưa được thành Phật. Cho nên, nói là chứng đắc chứ thực ra là “Vô đắc”, hay “Liễu vô khả đắc”. Hay nói cách khác, là đắc được những gì chính mình đã có, trong thiền tông gọi là “Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật”. Minh tâm kiến tánh là trở về được với chính cái “Bản lai diện mục” của mình chứ không phải ở ngoài. Nói cách khác, đây chính là lý “Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh-độ” vậy.

 

Phật dạy, “Tâm tịnh quốc độ tịnh”. Cõi quốc độ thanh tịnh chính là do cái tâm thanh tịnh của ta biến hiện ra. Tuy nhiên hãy cẩn thận! “Tâm tịnh quốc độ tịnh” là lý, đừng vội chấp vào lý mà cho rằng đây là cõi Tịnh-độ. “Phật tức tâm, tâm tức Phật” thì Phật ở ngay trong tâm, chứ không ở ngoài . Tuy nhiên, chưa minh tâm thì chưa thành Phật đâu! Chính vì chấp vào lý mà có người chủ trương không niệm Phật, không cầu sanh Tịnh-độ. Điều này nếu đúng thì chỉ đúng khi ta đã thành Phật rồi. Nhưng không thể đúng khi chúng ta còn có kiến tư, trần sa, vô minh phiền não dày đặc! Quyết chí tự tu, tự chứng, tự thành Phật ngay tại quả đất này là một điều đáng khâm phục, thích hợp với chư vị đại Bồ-tát tái lai, bậc thượng căn thượng trí mới có thể nói và hành được cảnh giới này. Đối với đại đa số chúng sanh hạ căn thấp trí thì không thể được. Chúng ta hãy xác nhận rõ căn cơ của mình, phải tu cho đúng căn, hợp cơ, hợp thời để đắc thiện lợi. Đã sanh vào thời mạt pháp thì nghiệp chướng của chúng ta nặng lắm, nếu không biết nhờ vào Phật lực gia trì, cứ mãi chạy theo những lý luận huyền diệu, thì khó có ngày thành tựu vậy!

 

Cho nên, Phật dạy tâm tịnh thì quốc độ tịnh, lý này chắc chắn đúng. Nhưng Phật vẫn khuyên nhắc chúng sanh cầu sanh Tây-phương Cực-lạc quốc, thì niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ cũng chắc chắn đúng. Tại sao vậy? Vì quốc độ tịnh thì tâm mới tịnh. Tâm thanh tịnh là nhân, quốc độ tịnh là quả; ngược lại, quốc độ tịnh là nhân, tâm thanh tịnh là quả. Nhân-Quả, Quả-Nhân tương trợ tương thành. Đây mới thực là viên mãn thanh tịnh. Nếu nhân quả không tương ứng thì sự việc không thành sự thật!

 

Ta hãy thử quán xét, quả địa cầu này hiện có hơn 6 tỉ người liệu có được tới 10 triệu người tu hành chưa? Trong 10 triệu người đó có lọc lựa được 10 ngàn người thành tâm tu hành không? Trong 10 ngàn người này liệu có tìm được 100 người đạt đến tâm thanh tịnh chăng? Cụ Huỳnh Niệm Tổ, vị Kim Cang Thượng Sư Mật-tông, đệ tử của cụ Hạ Liên Cư nói, toàn cõi Trung Quốc tìm đâu ra tới 10 người có tâm thanh tịnh! Với dân số trên một tỉ người mà chưa có tới 10 người tu hành đạt được tâm thanh tịnh, thì tỉ lệ cứ trên 100 triệu người tham sân si thì may ra mới có một người tu được tâm thanh tịnh. Vậy thì, hãy lại lấy câu “Tâm tịnh quốc độ tịnh” mà chiếu, thì biết ngay thế giới này sẽ an định hay loạn động, là Tịnh-độ hay uế độ!

 

Phật dạy, thế giới Ta-bà là uế độ. Rõ ràng môi trường, hoàn cảnh và nhân tâm đều không thanh tịnh. Chúng sanh bị dìm mãi trong phiền não khó thể vượt thoát được để minh tâm kiến tánh. Trong vô minh gây nên nghiệp vô minh, nghiệp chướng của chúng sanh càng ngày càng lớn. Con người xấu tạo nên hoàn cảnh xấu, hoàn cảnh xấu tạo ra con người xấu, cõi độ thực sự bị dìm mãi trong uế ác. Nay đã rơi vào thời mạt pháp thì càng ngày càng xấu, còn cơ hội nào nữa cho chúng sanh có thể thực hiện minh tâm kiến tánh?! Chính vì thế mà chúng ta phải cầu về Tây-phương Tịnh-độ, nhờ môi trường thù thắng của cõi Phật và lực gia trì của Phật A-di-đà làm tăng thiện duyên cho ta thành Phật. Đây chính là cơ hội cho một chúng sanh đầy nghiệp chướng có thể phá được vô minh để minh tâm kiến tánh vậy.

 

Ngài Thiện Đạo đại sư, vị tổ thứ hai của Tịnh-độ tông Trung Hoa nói rằng, tất cả đều do duyên bất đồng. Duyên này chính là cơ hội được vãng sanh Tịnh-độ. Người học Phật nếu thật sự muốn thành tựu phải tin lời Phật, phải niệm Phật, phải tha thiết nguyện vãng sanh. Ngày ngày phải thành tâm phát lồ sám hối nghiệp chướng, phải rơi nước mắt ăn năn về những tội lỗi của mình. Sáng trưa chiều tối phải lạy Phật cho nhiều để trút đổ nghiệp chướng xuống. Đừng sân giận, đừng tham lam, đừng nhìn lỗi thiên hạ, đừng đố kỵ người khác nữa, đừng xa lìa Phật pháp, hãy quyết lòng niệm Phật cầu xin Phật tiếp độ vãng sanh. Đây là cơ duyên thành đạo. Cơ duyên này Phật A-di-đà đã hiến tặng cho chúng sanh một cách bình đẳng, ai tiếp nhận thì được, ai từ chối thì mất phần. Ngài Thiện Đạo nói duyên bất đồng, chỉ vì chúng sanh tiếp nhận với tâm thái khác nhau mà thôi.

 

Vậy thì, nếu cơ duyên này đã đến tay, xin đạo hữu đừng hờ hững để nó trôi qua, rồi chờ đợi trong một tương lai xa vời nào đó mới hy vọng gặp lại, để rồi lại nghiền ngẫm, lại nghiên cứu, lại bàn ra tán vào. Bàn riết! Bàn hết kiếp này đến kiếp khác, bàn đến vô lượng kiếp rồi mà bây giờ còn muốn tiếp tục bàn. Càng bàn tâm càng loạn! Loạn tâm rồi thì chịu khổ thêm vô lượng kiếp nữa chứ có hay ho gì!  Nên nhớ rằng, hết báo thân này lỡ rơi vào tam ác đạo thì phải chịu khổ hàng triệu triệu năm chưa chắc đã được thoát thân. Trong khi đó, qua khỏi 9 ngàn năm nữa thì tới thời diệt pháp, lúc đó đâu còn cơ hội nữa để cho một chúng sanh ngu muội như chúng ta ngóc đầu lên! Vậy thì nếu là người hiểu đạo, sao còn ngồi đó làm thơ nuôi dệt vọng tưởng!?…

 

Thời mạt pháp tâm người loạn động, niềm tin Phật pháp yếu ớt, chính vì thế mà chúng sanh tự làm mất rất nhiều cơ hội vãng sanh. Có nhiều cụ tu rất lâu, rất thuần thành, rất chuyên cần, hàng tuần đều đến chùa lạy Phật, tụng kinh, niệm Phật, nhưng các cụ cũng không dám nguyện vãng sanh. Hỏi tại sao vậy? Những câu trả lời mà chúng ta thường gặp là: Tôi già rồi, không đủ khả năng; Tôi không đủ thiện căn; Tôi không có phước báu; Muốn vãng sanh về Tây-phương phải tu đến vô lượng kiếp mới được chứ đâu dễ gì một đời mà được, v.v… Ngoài ra, cũng có người không cần ngại ngùng nói rằng: Tây-phương là nói vậy thôi chứ ai biết có thật hay không mà mong cầu!

 

Vạn pháp duy tâm! Tâm đã hồ nghi thì đường giải thoát tự nhiên bị bế tắc. Do đây mà chư Phật muốn cứu độ chúng sanh đâu phải dễ dàng! Nghe Diệu Nhàn tâm sự, tôi cảm thông sâu xa về chuyện này.

 

Cứu người khó lắm! Cái khó thứ nhất là chúng sanh không tin Phật, họ tự đóng tất cả các hướng giải thoát, và tự nguyện đi theo con đường đọa lạc. Cái khó thứ hai là nhiều người đã học Phật nhưng không chịu nghe lời Phật dạy. Điều này, có thể vô tình hay cố ý, dẫn đến cái khó thứ ba: người học Phật thường dẫn dắt người khác đi theo con đường “Bất liễu giáo”. Từ đó, sự giải thoát trở thành vô phương! Chúng ta cứ nghĩ xem, một chúng sanh cứ mãi bơi lòng vòng trong biển khổ thì làm sao tránh khỏi bị chìm trong biển khổ?!

 

*) Cái khó thứ nhất là người không tin Phật. Trong thời đại mạt pháp chuyện này rất phổ biến! Phật cứu người cũng phải tùy duyên, thì chúng ta không đủ khả năng để chuyển hóa họ đâu. Hãy thành tâm cầu nguyện cho chúng sanh một ngày nào đó may mắn gặp được duyên lành, phát lòng tin tưởng vào Phật pháp để được cứu độ. Buồn hơn nữa, đôi khi chính những người trong gia đình chúng ta cũng thuộc vào diện này. Đây là chuyện thường tình chứ không có gì là đặc biệt!

 

Gặp nhau ở đời này là duyên nợ tiền kiếp, trả hết cái nợ này rồi thì đường ai nấy đi. Mỗi người đến thế gian này đều tùy theo nghiệp duyên, thì khi mãn báo thân cũng phải tùy theo nghiệp duyên mà thọ báo, trong trăm vạn phần, chưa chắc đã có một phần tái ngộ. Người tu hành muốn được giải thoát thì hãy phát nguyện vãng sanh Tây-phương. Ai nguyện về đó thì sẽ gặp nhau cùng nhau thành Phật, ai không nguyện thì họ đành phải đi đường riêng của họ. Chúng ta đã liễu ngộ đường thoát ly tam giới thì phải quyết tâm bảo vệ sự vãng sanh, phải tranh thủ niệm câu Phật hiệu, phải trân quý từng phút thời gian, phải tiết kiệm từng đoạn đường đời đi qua, đừng phung phí huệ mạng trong sáu nẻo luân hồi, đừng sơ ý hẹn nhau gặp lại kiếp lai sinh. Nên nhớ, nuôi một lời nguyện lệch ra khỏi Tây-phương Cực-lạc là tự dẫn độ đến tam đồ lục đạo, chắc chắn không được vãng sanh. Thời mạt pháp rồi, một đời nguy kịch hơn một đời, tương lai phải đối diện với hiểm nguy trùng trùng, đường thoát nạn chắc chắn sẽ mù mù mịt mịt!

 

Nhưng dù sao chúng ta cũng phải luôn luôn giữ tâm nguyện cứu độ chúng sanh. Phật dạy “Vô duyên đại từ”, nghĩa là vì lòng từ bi, Phật cứu độ chúng sanh không cần điều kiện. Chúng ta tu hành theo Phật thì cũng phải có tâm nguyện này. Đây thuộc về phần Phát Tâm Bồ-đề. Hơn nữa, nếu là người nhà với nhau thì đã có duyên, nên càng phải cứu. Tuy nhiên, người không tin Phật, thì lời nói thường trở thành vô dụng! Cách tốt nhất để cứu độ nhau là chính mình phải tự tinh tấn tu hành, rồi ngày ngày đem công đức hồi hướng cho nhau. Cứ thành tâm thiện ý làm như vậy thì công đức của mình dần dần giác ngộ được người chung quanh. Cứu độ chúng sanh, cứu độ người thân, tự cứu cho chính mình, tất cả đều nằm gọn trong câu “Nam mô A-di-đà Phật”. Cho nên, tu cho chính mình là tu cho tất cả, gọi là: “ Nhất tu nhất thiết tu” là vậy.

 

*) Cái khó thứ hai là không y giáo phụng hành, đây cũng không phải dễ giải quyết, vì thời này đã mạt pháp rồi, lời chánh pháp của Phật rất khó được nghe. Bên cạnh thì sự cám dỗ quá lớn của vật chất, của triết lý thế gian, cám dỗ bởi những hào nhoáng đang phát triển của khoa học kỹ thuật, v.v… Nếu chúng ta suy xét cho cùng, thì tất cả những thứ này cũng chỉ là vọng tưởng, là vô thường, sau cùng chỉ là “Không” chứ có được gì đâu! Thế nhưng, sự cám dỗ này vẫn có một sức mạnh đáng kể, dễ dàng xoay lệch hướng tâm linh của người học Phật khi chưa được chánh định! Vì chưa được “Chánh Định”, cho nên mới cảm nhiễm “Tà Định”, hoặc chạy theo “Bất Định”, vô hình chung chúng sanh càng ngày càng lún sâu vào chỗ mông lung “Bất liễu”! Tà định là không niệm Phật; Bất định là tâm không có chủ định, đụng đâu tu đó, nói đơn giản hơn là tạp tu; Chánh định chính là niệm A-di-đà Phật, quy hướng về Tây-phương Cực-lạc để một đời thành Phật. Trong kinh Vô lượng thọ Phật nói rõ chuyện này. Cho nên tu hành mà không thông lý, thì đường tu thường bị nhiều chướng ngại!

 

Nguyễn Thái Học nói: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông!”. Câu nói của một nhà đấu tranh chánh trị nhưng chứa đầy tư tưởng Phật học. Đời mạt pháp này vạn ức người tu khó tìm được người thoát ly tam giới, một trong những chướng ngại là vì do lòng e ngại. Vì ngại ngùng mà không đi, vì e dè mà không cầu, vì cái nghĩ quá hạn hẹp mà đành tiếp tục chịu vạn kiếp trầm luân!

 

Mới vừa rồi Diệu Âm tiếp xúc được chị Phật tử, chị nói, chị có người mẹ cũng tu hành niệm Phật rất chuyên cần, rất thành khẩn, nhưng nguyện vãng sanh thì không nguyện. Hỏi tại sao vậy? Chị nói, “Phải có nhiều thiện căn phúc đức trong nhiều đời nhiều kiếp rồi mới được vãng sanh thành Phật, chứ làm gì có chuyện một đời niệm Phật mà được vãng sanh!”.

 

Ở nhiều nơi, chúng ta cũng thường gặp không ít người có ý nghĩ này. Nhiều người có tâm hồn hiền lương, khá từ bi, tâm nguyện khá khiêm nhường, họ cứ cầu mong đời sau được tái sanh làm người ngoan đạo, gặp được minh sư, tiếp tục tu hành, chứ không dám “làm cao!” cầu đến chuyện viên thành Phật đạo!…

 

Thương hại cho chúng sanh là chỗ này, mà đáng trách cho chúng sanh cũng chính ở chỗ này! Thương vì quá hiền từ đến nỗi mê muội! Trách vì đã mang thân đi học Phật mà không chịu y giáo phụng hành! Thương vì chúng sanh bị quá nhiều sự cám dỗ làm chướng ngại! Trách vì nhiều người học Phật tự mình không chịu nhìn thấu đạo lý, cứ thích dắt dẫn nhau theo con đường sanh tử luân hồi! Thương vì còn quá nhiều chúng sanh chưa có duyên gặp Phật pháp! Trách là trách cho những người đã gặp được Phật pháp mà không chịu giác ngộ, không chịu liệng bỏ cái suy nghĩ sai lầm của mình!…

 

Trong Tứ Y Pháp, Phật dạy: Y pháp bất y nhân, y ý bất y ngữ, y liễu pháp bất y bất liễu pháp, y trí bất y thức. Phật dạy vậy, nhưng trong đời này ít có người y theo “Tứ y pháp” để tu hành, mà lại thích chạy theo nửa phần sa đọa! Oan uổng lắm vậy!

 

1) “Y pháp, bất y nhân” là theo chánh pháp của Phật để tu chứ không phải theo người giảng pháp. Nên nhớ người giảng pháp dù cho hay tới đâu, nghe êm tai tới đâu thì họ vẫn chưa phải là Phật. Do đó, có thể người giảng pháp giảng sai. Hoặc giả, có người giảng nói rất hay mà chính họ thì thực hiện không được, thậm chí còn làm sai với chánh pháp nữa là khác. Điều này xảy ra rất thường, đã ảnh hưởng không tốt đến niềm tin của đại chúng. Y pháp bất y nhân để giải cái vấn nạn này.

 

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nói thời mạt pháp “Tà sư nói pháp nhiều như cát sông Hằng”. Vậy thì, người nói được làm được thì đây là mẫu mực cho ta. Còn gặp trường hợp người nói được mà làm không được, hoặc nói sai làm sai thì đó chuyện của họ, riêng mình hãy y cứ theo pháp Phật tu hành, đừng nên bám theo cá nhân hoặc chê trách hay chống đối người diễn nói mà coi chừng chính ta bị lạc vào con đường “Tà định”. Với 84 ngàn pháp môn, thì niệm Phật là pháp tối viên mãn! Phật dạy đời mạt pháp niệm Phật mới được thành tựu, thì ta nhất định chuyên niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh-độ là được.

 

2) “Y ý, bất y ngữ”, trọng ý không trọng lời. Kinh pháp của Phật là phương tiện cứu độ chúng sanh, tùy thời, tùy chỗ, tùy cơ mà ứng thuyết. Đôi khi Phật nói một việc nhưng lại dùng nhiều danh tự khác nhau. Chúng ta không thể chấp vào thuật ngữ mà giảng giải được. Mới vừa rồi, ở đây có Phật tử nghe lời pháp của HT Tịnh-Không giảng về “Luận vãng sanh” của Thiên Thân Bồ-tát, Ngài nói có câu: “Kinh Phật thật tế là vô nghĩa…!”.

 

Trong nhiều giảng ký khác, Ngài nói mỗi chữ mỗi câu trong kinh Phật bao hàm “vô lượng nghĩa”, còn ở đây Ngài lại nói là “vô nghĩa”, làm cho anh thật sự đầy nghi hoặc(!). Anh đến hỏi tôi tại sao lại lạ lùng vậy?! Sau một vài phút bàn luận, anh ta cảm thấy vô cùng hoan hỉ, biết thêm một lý đạo mới, đó là: “Y ý, bất y ngữ” .

 

Kinh Phật có “Vô lượng nghĩa” hay “Vô nghĩa” đều do cảnh giới của người nghe. Phật giảng kinh là vô định thuyết, tùy cơ ứng thuyết, tùy bệnh cho thuốc. Mỗi bệnh mỗi thuốc, thuốc này chỉ có nghĩa đối với bệnh này. Đem vị thuốc này mà trị bệnh kia, thì thuốc sẽ “vô nghĩa”! Hơn nữa, Phật nói pháp cho chúng sanh nghe, chứ Phật không nói pháp cho Phật nghe. Chúng sanh hành theo pháp để thành Phật, một khi đã thành Phật rồi thì đâu còn pháp gì để theo nữa! Nói rõ hơn, chơn tâm đã được khai mở thì pháp từ tâm hiển xuất, chứ đâu có pháp ở ngoài. Lục Tổ nói, “Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp”. Vãng sanh luận là của Bồ-tát Thiên Thân, nói “Kinh Phật vô nghĩa” là nói ở cảnh giới của Đại Bồ-tát minh tâm kiến tánh. Chúng ta là phàm phu, có tư cách gì mà dám chấp nê!

 

Nói cụ thể hơn, “Y ý bất y ngữ” còn có nghĩa chớ nên coi thường những lời nói mộc mạc, đừng quá ái mộ vào những cách diễn thuyết hay ho. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”, hãy trọng cái thực tâm tu hành, đừng trọng cái hào nhoáng thế tục.

 

Cụ Ngụy Quốc Hưng vãng sanh vào ngày 5/2/2003, cuộc vãng sanh vô cùng tự tại, an nhiên. Cái giá trị của Cụ là sự thành tựu “tự tại vãng sanh”chứ không phải là nói hay. Xem đoạn phim quay lại cuộc vãng sanh, chúng ta thấy rõ ràng Cụ đi theo Phật chứ không phải là chết. Cụ ở hay đi đều tự nhiên, thoải mái. Cụ chỉ là một người thợ mộc hiền lành, chất phác, hoàn toàn không có dáng dấp của người kiểu cách. “Y ý, bất y ngữ” là quý cái lòng thành của Cụ, quý cái tâm hiền từ của Cụ, quý ở chỗ thật thà, ngay thẳng. Còn lời nói của Cụ thì đơn sơ, quê mùa, chứ không có văn vẻ, trôi chảy, đâu có những lời triết lý bóng bẩy, chải chuốt, cao xa! Thế mà, sự thành tựu của Cụ mấy ai trong đời này sánh được?

 

3) “Y liễu pháp, bất y bất liễu pháp”, điều này quan trọng lắm! Tu hành mà không phản tỉnh, thì coi chừng công phu tu hành khổ cực rốt cuộc chỉ hưởng được chút ít duyên lành, chứ không thể siêu vượt tam giới. Đạo Phật là đạo giải thoát, giúp chúng sanh chuyển phàm thành Thánh, thoát khổ được vui. Nếu tu mà không quyết lòng thoát ly sanh tử luân hồi, thì khổ vẫn hoàn về khổ!

 

“Liễu pháp” là giáo pháp chân thực viên mãn. “Bất liễu pháp” là phương tiện pháp, chưa được trọn vẹn. Phật 49 năm thuyết kinh giảng đạo, vì căn tánh chúng sanh bất đồng cho nên Phật thường dùng phương tiện để từng bước dẫn dắt chúng sanh đi lên, nhưng cứu cánh cuối cùng vẫn là viên thành Phật quả. Kinh pháp thuyết giảng về chân nghĩa cứu cánh hiển liễu, có thể viên mãn thành tựu Phật quả, gọi là “Liễu-nghĩa hay Liễu-pháp”. Kinh điển nói chưa trọn, chưa hết, chưa đi đến cứu cánh viên mãn Bồ-đề, thì gọi là “Bất-liễu-nghĩa hay Bất-liễu-pháp”. Vì căn cơ của một số tầng lớp chúng sanh còn quá chấp trước, khó thể nhất thời tiến xa hơn, cho nên Phật đành phải dùng thuyết phương tiện để dẫn dắt chúng sanh tiến dần vào đạo giải thoát. Người học Phật thường khi sơ ý cứ chấp vào phương tiện mà lầm tưởng là cứu cánh!

 

“Y liễu pháp, bất y bất liễu pháp” là lời Phật dạy trong kinh điển đại thừa, khuyên chúng sanh nên y cứ theo kinh liễu nghĩa để chân thật thành tựu, đừng y theo kinh bất liễu nghĩa, mà đường tu hành bị gian nan trắc trở, phải trải qua thời gian vô lượng kiếp. Kinh liễu nghĩa, nói rõ hơn nữa, là kinh dạy thành Phật. Kinh bất liễu nghĩa là các loại kinh sách dạy về phước báu nhân thiên, chứng đắc các quả vị khác chưa phải là Phật quả. Y theo kinh liễu nghĩa thì một chúng sanh có thể một đời thành Phật, gọi là “Nhất sanh thành Phật”.

 

Cũng cần chú ý, đừng lầm lẫn rằng “một đời thành Phật” là sống vài mươi năm trên trần thế, rồi chết đi là thành Phật, mà “một đời thành Phật” chính là trường hợp của Cụ Ngụy Quốc Hưng. Đời này Cụ niệm Phật, được vãng sanh Tây-phương Tịnh-độ. Vãng sanh là sống mà đi. Ví dụ điển hình, Cụ nói: “Hai phút nữa tôi đi”, rồi từ tạ đại chúng, ngồi xuống ghế, liệng cái xác thịt lại để theo Phật. Rõ ràng là Cụ đi vãng sanh chứ không phải chết. Về tới Tây-phương thì viên mãn tam bất thối chuyển, thọ mạng của Cụ sẽ vô cùng vô tận, Cực-lạc an vui, thần thông tự tại, đạo lực có thể sánh ngang với thất địa Bồ-tát trở lên, chờ đến ngày thành Phật trong khoảng từ 3 kiếp cho đến 12 kiếp. Đây là Phật dạy trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ. Thời gian này so với vô lượng kiếp của các pháp tu khác thì quá nhanh. Tất cả công đức này đều do đức A-di-đà Phật gia trì cho Cụ vậy.

 

Trở lại vấn đề “Bất liễu giáo”. Có người tu hành rất đắc lực, nhưng lại mặc cảm rằng mình không đủ thiện căn phước đức để vãng sanh, họ từ chối không chịu nguyện sanh Tây-phương Cực-lạc. Đây là việc khá đáng tiếc! Như câu chuyện của chị đạo hữu phía trên. Người mẹ già của chị rất thành tín, rất hiền lành, thường xuyên tham dự thọ bát quan trai, với nguyện vọng rất khiêm nhường là cầu cho tâm hồn thanh tịnh, căn lành tăng trưởng, đời sau gặp lại Phật pháp, gặp sư phụ tốt để tiếp tục tu hành. Tôi khuyên chị nên hướng dẫn người mẹ niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ.

 

Chị trả lời: Tôi nghĩ rằng, tuổi xế chiều mẹ tôi về chùa tu hành là tốt rồi, còn chuyện vãng sanh là do thiện căn tu hành nhiều đời nhiều kiếp mới được, chứ đâu dễ gì mẹ tôi có phần…

 

Tôi hỏi lại: Chị biết rõ tiền kiếp của mẹ chị à?

 

Chị trả lời: Tôi tài gì mà biết được!….

 

Một người hoàn toàn không hề biết tiền kiếp của mẹ mình, mà lại dám khẳng định rằng mẹ mình không đủ phần vãng sanh! Người mẹ cũng an phận thủ thường, đồng ý với người con, cho rằng mình chưa đủ thiện căn phước đức để thoát ly tam giới. Nhưng thực tế, theo chị kể, thì thấy công phu tu hành của bà cụ rất tốt, dụng công chuyên cần thật đáng khen, ngày ngày đều có niệm Phật. Niềm thành kính Tam-Bảo vượt xa những người bình thường. Ấy thế mà vẫn tự cho mình chưa đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên, mà đành lòng không nguyện vãng sanh!

 

Tổ Ấn-Quang dạy rằng, người không cầu sanh Tịnh-độ, dù cho có niệm Phật đến chỗ gió thổi không qua, mưa rơi không lọt thì cũng chỉ là pháp tự lực tu chứng. Nếu nghiệp chưa sạch, tình chưa không thì vẫn phải tiếp tục chịu sanh tử luân hồi. Tổ Ngẫu-Ích dạy, được vãng sanh Tây-phương là nhờ tín và nguyện, phẩm vị cao hay thấp là nhờ niệm Phật sâu hay cạn. Cho nên, tha thiết nguyện sanh Tây-phương là tối ư quan trọng!

 

Thực sự những ý nghĩ này rất phổ thông, có rất nhiều người vướng phải cái mặc cảm tự ti này. Con đường thành đạo của họ chính họ tự đoạn mất mà không hay! Biết vậy, nhưng làm sao chúng ta đi đả thông tư tưởng của cùng khắp chúng sanh đây!

 

Để thức tỉnh người đạo hữu đó, tôi đem chuyện ông Châu Quảng Đại, mà trong giảng pháp của Ngài Tịnh-Không thường nhắc đến, tóm tắt kể cho chị nghe. Ông Châu Quảng Đại một người ở Washington (Mỹ), suốt đời không biết gì về Phật pháp, không tin Phật. Đến cuối đời mắc phải bệnh ung thư không còn chữa được, sắp chết. Vì quá sợ chết cho nên mới sai người nhà chạy khắp nơi cầu cứu. May mắn cho ông ta, gặp được những đồng tu niệm Phật phân tích cho ông ta biết rằng, cái mạng của ông không còn cứu được nữa đâu, chi bằng hãy buông xả đi, quyết tâm niệm Phật cầu sanh Tây-phương Cực-lạc. Ông nghe theo, quyết lòng niệm Phật và mời đồng tu về hộ niệm. Niệm Phật chỉ trong ba ngày đã được Phật A-di-đà hiện thân tiếp dẫn, an nhiên vãng sanh. (Ông Châu Quảng Đại vãng sanh trong khoảng những thập niêm cuối của thế kỷ 20).

 

Sau khi kể xong, tôi hỏi chị: Hãy so sánh thử, giữa mẹ chị với ông Châu Quảng Đại ai là người có thiện căn, phước đức, nhân duyên nhiều hơn?

 

Chị nói: Ông Châu Quảng Đại nhiều hơn.

 

Tôi nói: Không! Chính mẹ chị có nhiều hơn.

 

Tại sao vậy? Tôi giải thích, vì mẹ của chị có tin Phật, có niệm Phật, có đi chùa lạy Phật, trong khi ông Châu Quảng Đại thì suốt đời không biết gì về Phật pháp cả. Tin Phật là có thiện căn, niệm Phật lạy Phật là có phước đức, đi chùa là đã gặp nhân duyên. Đây đâu phải là chuyện tầm thường! Một người đã có đầy đủ thiện căn, phước đức, nhân duyên, thì trong kinh A-di-đà Phật nói được vãng sanh, tại sao chị lại nghĩ rằng mẹ chị không đủ phần vãng sanh?

 

Chị lại nói: Nhưng mẹ tôi đâu có tha thiết đến chuyện vãng sanh!

 

Tôi nói: Suốt trong nhiều năm qua, mẹ chị rất thành khẩn tu hành, nhưng không biết đến việc thoát ly tam giới, không tha thiết đến chuyện vãng sanh Tây-phương Cực-lạc để thành tựu đạo Bồ-đề. Đây không phải là do mẹ chị thiếu tiêu chuẩn, hay không thích, nhưng chính là vì mẹ chị không có được sự hướng dẫn rõ ràng đường đi!…

 

Thực vậy! Nếu chúng ta đi rảo một vòng tìm hiểu người học Phật khắp nơi thì mới phát hiện ra một vấn đề thiếu sót quan trọng. Đó là, có rất nhiều người tu hành lâu năm mà không biết niệm Phật, chưa hề thật lòng phát một lời nguyện vãng sanh Tây-phương. Hầu hết các cụ già thật thà chất phác, dạy sao nghe vậy. Suốt thời gian tu hành lâu năm các cụ rất ngoan đạo, thành kính lạy Phật, ăn ở hiền lành, một lòng giữ giới hạnh, nhưng chỉ biết an phận thủ thường, làm lành lánh ác, cầu siêu, cầu an, cúng dường, làm phước, gây quỹ, v.v… nhìn thấy quý cụ làm việc rất siêng năng, ai cũng tán thán, khen ngợi. Chính vì vậy mà các cụ cứ yên tâm cho rằng mình tu hành tốt! Nhưng thật ra, xét cho kỹ, đó chỉ là con đường nặng về tu phước, thiếu phần tu huệ. Nói cách khác, hành theo “Bất liễu giáo”, khó thể giải thoát được!

 

“Liễu pháp” là chánh pháp, “bất liễu pháp” không được kể là chánh pháp. Để phân biệt tà chánh, HT Tịnh-Không có giảng đến 4 tiêu chuẩn: một là, tương ứng lợi ích; hai là, tương ứng lời Phật dạy; ba là, không tương ứng phiền não; bốn là, không tương ứng sanh tử.

 

“Tương ứng lợi ích” mới là chánh pháp. Lợi ích chân thực này chính là vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, thành tựu viên mãn đạo Bồ-đề. Dù cho học pháp môn nào thì ý niệm thoát ly sanh tử phải minh bạch rõ ràng, tâm tâm nguyện nguyện không rời vấn đề này mới thuộc về liễu nghĩa pháp. Trong kinh A-di-đà, đức Phật phải nhắc đến 4 lần chuyện cầu nguyện vãng sanh Tây-phương. Học Phật ai mà không đọc kinh này? Thế thì tại sao có người tu khá lâu nhưng chưa hề chú ý đến lời nguyện vãng sanh! Đây là một sự sơ ý quá lớn! Dù vô tình hay cố ý, tâm không tương ứng với lợi ích chân thực, thì không đúng lắm với chánh pháp của Phật!

 

“Tương ứng lời Phật dạy” là chánh pháp. Y giáo phụng hành là pháp cúng dường đầu tiên đối với chư Phật. Học Phật phải theo lời Phật. Kinh Đại-Tập Phật dạy, thời kỳ chánh pháp gìn giữ Giới Luật có thể thành tựu, thời tượng pháp Thiền Định có thể thành tựu, thời kỳ mạt pháp Tịnh-độ mới thành tựu. Người học Phật phải cẩn thận theo đúng lời Phật mà tu hành thì mới mong thành tựu cho chính mình, mới cứu được chúng sanh thoát vòng tam giới. Chúng ta không nên làm ngược lại lời Phật dạy mà đường tu đi đến chỗ mông lung!.

 

“Không tương ứng phiền não” thì tâm mới thanh tịnh. Tham sân si là phiền não. Tu hành là phải lánh xa tất cả nguồn căn dẫn đến tham lam, sân giận, ngu si mới là chánh pháp. Đi chùa chỉ để cầu tài, hái lộc, cầu phước… thoát sao khỏi chữ “THAM”! Không để cho tâm thanh tịnh, lại đi chống báng, đố kỵ, nói xấu lẫn nhau thì tránh sao cho khỏi chữ “SÂN”. Có câu: “Thường kiến tự kỷ quá, bất thuyết tha nhân phi…”, (Luôn luôn thấy cái lỗi của mình, đừng nói đến cái lỗi của người khác…). Người mà thấy ai làm điều gì cũng chê bai, còn mình thì thích tự khoe khoang, thích nói hay lý luận giỏi, cống cao ngã mạn… tất cả đều nằm trong chữ “SI”. Tương ứng với phiền não dễ lắm! Phải cố gắng tự xét cho nhiều mới được!

 

“Không tương ứng với sanh tử” mới là chánh pháp. Sanh tử là lục đạo luân hồi. Tu học Phật mà không cầu thoát ly tam giới, không cầu chứng đạo Bồ-đề, lại đi cầu thành Tiên, thành Thần, cầu tái sanh làm người, cầu giàu có… nói chung là cầu phước báu nhân thiên, đây không phải là liễu pháp của Phật. Người học Phật không tìm đường vượt thoát luân hồi, không cầu sanh Tịnh-độ, lại đi cầu những cảnh giới trong lục đạo, thì theo như Tổ Ấn-Quang nói: “Chẳng khác gì người đem viên ngọc như ý đổi lấy tán kẹo”. Đây thật là điều đáng tiếc!

 

5) “Y trí, bất y thức”, trí là lý trí, thức là tình thức. Đem tám thức biến thành bốn trí mới hoàn thành đạo nghiệp. Tám thức gồm có năm thức của thân là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ba thức của tâm là: ý thức, chấp thức (Mạt-na), tạng thức (A-lại-da). Đem năm thức đầu chuyển thành “Thành sở tác trí”; ý thức chuyển thành “Diệu quan sát trí”; mạt-na thức hay gọi là thức phân biệt chuyển thành “Bình đẳng tánh trí”; A-lại-da thức chuyển thành “Đại viên cảnh trí”.

 

Lý đạo này cao quá! Nói thì phải nói cho biết vậy, chứ phàm phu chúng ta dễ gì thực hiện được chuyện này!          Thôi thì, tốt nhất là thực tâm tu hành, cố gắng xử sự theo lý trí cho hợp lẽ đạo để có đường giải thoát, đừng nên dùng tình cảm mà dễ mê lầm!

 

“Bất cát ái bất ly Ta-bà”, tình cảm là sợi dây trói ta mãi trong lục đạo. Đời sống cư sĩ thì chúng ta phải hòa chung với người, nhưng trong tâm cũng nên tập buông xả, đó là “cát ái”. Có như vậy lúc lâm chung tâm mới thoát cái nạn lưu luyến con cái, lưu luyến vợ chồng. Cái thân cũng là đồ giả, cũng đừng luyến tiếc nó quá. Muốn thành Phật thì quyết lòng cầu nguyện vãng sanh vậy.

 

Chúc Diệu Nhàn thấy rõ đường đi, con đường “Niệm Phật thành Phật”.

A-di-đà Phật,

Diệu Âm

(Viết xong, Úc châu, ngày 28/4/04).

 

 

 

 

 

 

 

 

 

(Như Lai sở dĩ hưng xuất thế,

Duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải)

 

Người hiện nay vừa thấy được một chút gì lạ thì vội cho mình là hay lắm, liền nói với người này, người nọ là tôi đã thấy Phật, tôi đã được cảm ứng, và… và… Quý vị đâu ngờ rằng, một khi đem việc này khoe khoang ra, thì tâm thanh tịnh của quý vị đã hoàn toàn bị phá hỏng hết. Phải nên nhớ rằng: cho dù là “Định Trung Kiến” (tức là trong lúc định tâm niệm Phật mà thấy), hoặc thấy trong giấc mơ, cũng không nên giữ trong tâm. Bởi vì “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”.

(PS Tịnh-Không).

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

Mong tất cả chư vị cùng hiểu thấu vấn đề và nhận thức ra rằng, pháp Niệm-Phật thật sự thù thắng, rất hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Còn điểm mạnh của pháp Hộ-Niệm là hướng dẫn chúng ta thực hiện pháp Niệm-Phật một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác và kịp thời hóa giải những ách nạn, vượt qua chướng ngại để đi về Tây-Phương Cực-Lạc. Xin chư vị cố gắng giữ thật chặt cơ duyên này để vãng sanh thành tựu đạo quả.

– Cư Sĩ Diệu Âm Minh Trị –