Cần Biết Rõ Đường Vãng Sanh (Khuyên Người Niệm Phật 71)

Share on facebook
Share on twitter

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT
Tác Giả: Cư sĩ Diệu Âm
Phật lịch năm 2547 / Dương lịch năm 2003

Cần Biết Rõ Đường Vãng Sanh

Kính gởi đạo huynh Thiện Khánh,

 

Diệu Âm có chút duyên sự phải đi Pháp, Âu châu hơn một tháng, vừa về thì nhận được thư của anh và một số thư khác. Diệu Âm xin hồi thư anh. Việc may mắn đầu tiên là khi vừa về tới Úc thì tôi đã sớm có dịp được bái kiến HT Tịnh-Không và trình bày lên Ngài cái nguyện vọng của anh. Ngài đã hứa khả. Nhưng trong thời gian này Ngài rất bận, vừa mới xong mấy đại lễ thì Ngài phải bôn ba xuất ngoại để hoằng pháp. Thôi thì cũng tùy duyên, có duyên thì “Hữu cầu tất ứng” chứ không nên vội. Nếu anh có được thủ pháp của Ngài thì thật là quý hóa lắm vậy.

 

Kính anh Thiện Khánh, có lẽ chúng ta có duyên với nhau nên đời này ở xa mà thành gần. Tôi rất sung sướng được làm quen với một người biết làm thơ, biết tu hành và tâm hồn nhiệt thành như anh. Đọc thư anh tôi rất lấy làm cảm kích, nhưng thật sự không dám nhận những lời tán thán và cảm ơn của anh. Khi gặp được pháp môn niệm Phật thì tôi tin tưởng, rồi lấy lòng tín ngưỡng đó mà thành tâm khuyên người niệm Phật. Lòng chân thành khuyên giải, mong cho những ai nghe được phát khởi lòng tin, muốn được vãng sanh, chí tâm niệm Phật. Cầu xin tất cả đắc được thiện lợi. Diệu Âm chỉ được bấy nhiêu đó mà thôi.

 

Triệt-Ngộ Thiền sư nói: “Nhứt cú Di-đà, đắc đại tự tại, chuyển biến thánh phàm, dung thông thế giới”. Niệm một câu A-di-đà Phật được đại tự tại tam muội, siêu phàm nhập thánh, dung thông quán suốt mười phương pháp giới. “Tam muội” là chánh thọ hay thiền định. “Đắc đại tự tại” là đại thiền định. Cho nên, pháp môn Niệm Phật không khác với pháp môn Thiền, mà là pháp “Tối thượng thiền”. Người nào một lòng thành tâm niệm A-di-đà Phật, tha thiết cầu sanh Tây-phương, tin tưởng vững chắc như vậy mà tu hành thì sự vô ngại, lý vô ngại, lý sự vô ngại, quyết định dung thông pháp giới, thành tựu đạo quả.

 

Định tâm vào câu A-di-đà Phật, định hướng tương lại ở Tây-phương Cực-lạc, coi việc vãng sanh Tịnh-độ là tối quan trọng, đây gọi là “Chánh-Định-Tụ”. Thọ mạng này quá ngắn ngủi, vô thường tấn tốc, mà tâm thì lao chao gặp đâu tu đó, không có hướng nhất định, gọi là “Bất-Định-Tụ”. Vãng sanh Tây-phương được thì được tất cả, chưa vãng sanh Tây-phương thì còn chịu cảnh vô thường!  Còn ở trong cảnh vô thường thì dù cho thông giải kinh điển, có được thiền định nào đó của thế gian thì cũng chỉ là cảnh vô thường! Thấy rõ ràng mình không đủ khả năng tự vượt thoát tam giới, mà vẫn cố chấp không chịu niệm Phật để phải chịu thiệt thòi, thì gọi là “Tà-Định-Tụ”. “Bất-Định” và “Tà-Định” không có khả năng về tới cảnh giới Tây-phương. Chỉ có “Chánh-Định” mới được vãng sanh, đắc A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Lý đạo này nói rõ trong kinh Vô-lượng-thọ, nhưng người thế gian có mấy ai hiểu thấu!…

 

Anh Thiện Khánh kính, trong đời này chúng ta có duyên niệm Phật, là có cái nhân lành Tịnh-độ. Nhân có, duyên đến, thì nay ra hoa. Xin gìn giữ cái hoa này cho thật cẩn thận thì tương lai chắc chắn sẽ kết trái. Mừng cho chúng ta cùng đi chung một đường, về chung một hội. Hãy dành nhiều thì giờ cho sự vãng sanh Tây-phương, để đạo quả của chúng ta được sớm ngày thành tựu viên mãn. Cơ hội này không phải dễ tìm đâu, xin chớ xem thường. Có nhiều người tu học Phật trọn cả cuộc đời mà nhiều khi không gặp được pháp niệm Phật, không biết câu A-di-đà Phật để niệm, không rõ đường vãng sanh, để cuối đời ra đi trong mê mờ mù mịt, khiến cho thần thức vốn dĩ giải thoát, nay phải biến thành một thứ “Vong Hồn” lưu lạc buồn đau! Hay là, như đức Khổng Phu Tử nói, một loại “Du Hồn” vất vưởng! Đây là vì vụng tính mà đành chịu mãi mãi trầm luân trong bể khổ! Thật quá tội nghiệp! Quá đáng tiếc!

 

Tu học Phật phải nhắm đến việc siêu thoát lục đạo luân hồi, chuyển phàm thành thánh, phải biết chủ động phương pháp, vạch rõ đường đi để cứu lấy huệ mạng của mình, phải sáng suốt chọn hướng giải thoát, chứ tu hành không phải là để khi chết được cầu siêu. Có nhiều người rất muốn được siêu sanh, nên thường dặn dò con cháu rằng, khi ta chết rồi hãy đến chùa cầu siêu giùm ta. Đáng thương thật!

 

Được siêu sanh hay không là do tự chính mình phải biết tu hành đúng cách, phải tự thắp đuốc soi sáng đường đi.  Muốn viên mãn giác ngộ thành Phật, thì lời Phật dạy trong kinh điển là ngọc đuốc soi sáng tâm hạnh. Phật dạy, niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh-độ để được siêu sanh, mình không chịu niệm Phật, lại tự đi theo con đường riêng, hoặc nằm đó chờ chết để cầu người đến siêu độ, có phải là đi sai đường rồi chăng!

 

Người học Phật thời nay hầu hết sơ suất về chuyện này, thường nặng về tu phước, còn việc sanh tử thì không lo. Một trong những lý do có lẽ là ỷ lại rằng, chết rồi sẽ được cầu siêu!…

 

Phật giáo là đạo cứu khổ, cứu nạn, cứu sanh tử cho chúng sanh. Cứu sanh tử nghĩa là vô sanh vô tử, vượt thoát tam giới thành Phật, chứ học Phật đâu phải là cách chờ chết rồi xin cầu siêu! Xin tất cả chư vị đồng tu, những người đang học Phật nên sớm thức tỉnh, nghiên cứu lại kinh Phật cho thật kỹ mà giác ngộ đường tu, để khỏi oan uổng công phu tu tập.

 

Nói như vậy không có nghĩa là phá bỏ việc cầu siêu. Cầu siêu là việc phải làm, cần phải làm, đành phải làm vì có quá nhiều người chết. Nhưng còn có những việc cần thiết hơn nữa, không thể không làm, đó là pháp cứu người khỏi chết, vững vàng siêu sanh. Một là, tu hành phải hợp căn, hợp sự, hợp lý. Hai là, biết cách hộ niệm vãng sanh trước khi chết, ở phút lâm chung, sau khi lâm chung. Những điều này quan trọng gấp trăm ngàn vạn lần hơn sự cầu siêu, thế mà nhiều người lại xem thường. Thật quá thiếu sót! Quá sơ suất!

 

Trước khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện tại Nepal lập đạo, ở đó đã có khoảng 96 đạo giáo. Trong những giáo phái này họ cũng tu thiền, tu phúc, tu huệ đầy đủ, công phu rất cao, chứng đắc không phải thấp. Họ có thể đạt được những mức thiền định rất thâm hậu, có trí huệ, có thần thông, có chứng ngộ, nhưng tất cả vẫn chỉ là phước báu nhân thiên, chưa đủ lực thoát vòng tam giới. Đức Phật thị hiện xuống phàm chính là để giải quyết cái vấn nạn này, nghĩa là cứu cái sanh tử khổ nạn của chúng sanh, chứ không phải tạo thêm phương tiện mới cho chúng sanh chìm đắm trong sanh tử luân hồi. Thời mạt pháp này, muốn vượt thoát luân hồi lục đạo, muốn viên thành Phật đạo thì không có đường nào đơn giản, vững vàng và nhanh chóng bằng đường niệm Phật vãng sanh Tây-phương Cực-lạc.

 

Kinh Đại-Tập Phật dạy, chúng sanh trong thời mạt pháp phải nương theo pháp môn niệm Phật mà thoát luân hồi. Niệm Phật thoát luân hồi là vãng sanh Tây-phương Cực-lạc, chứ không phải chết. Người đã vãng sanh thì đâu cần tới chuyện cầu siêu! Người trông cậy vào sự cầu siêu là vì chỉ biết chờ chết, chứ không biết đi vãng sanh. Nói cách khác, không biết tu đường đắc vãng sanh, thành ra chỉ tu theo đường chờ chết! Chết trong lục đạo và vãng sanh về Tây-phương là hai sự việc hoàn toàn khác nhau, trước đây chúng ta đã bàn qua khá nhiều rồi. Người chết rồi quả thật đáng thương hại! Vì quá thương hại cho người chết, nên phải tổ chức cầu siêu cho họ. Phật dạy lấy từ bi làm gốc, người học Phật phải có tâm cứu độ chúng sanh. Cứu người thì còn nước còn tát. Cầu siêu, là lòng chân thành muốn cứu độ vong linh, mong cho tương lai người đó trở về với Phật pháp tu hành đứng đắn để có cơ hội được độ, còn việc sẽ được độ hay không còn tùy thuộc vào nhiều nhân duyên, chứ đâu phải cầu siêu là chắc được siêu sanh! Ấy thế, mà nhiều người cứ đem huệ mạng của mình kỳ vọng vào điều này. Thậm chí, nhiều nơi còn lập giá biểu để cầu siêu. Thật hết chỗ nói!

 

Theo như ngài Tịnh-Không nói, trong Phật giáo sự cầu siêu chỉ mới xuất hiện từ đời nhà Đường bên Trung Quốc, khi tướng An Lộc Sơn tạo phản, gây nên quốc nạn tương tàn, người chết vô số, Đường Huyền Tông năm Khai Nguyên thứ 26, mới lập ra Khai Nguyên Tự để siêu độ cho tướng sĩ trận vong, cho vong linh tử nạn. Siêu độ từ đó mà có.

 

Trong thư anh viết: “…Tôi làm con của mẹ tôi, mà tôi không đủ lời lẽ để khuyên mẹ mình, mong anh thương tình một lời khuyên thẳng cho vài hàng”. Đọc tới lời này, anh Thiện Khánh làm tôi vô cùng cảm động! Anh là người có kiến giải về Phật pháp không phải thường, có những tư tưởng sâu sắc, có tâm cầu đạo rất mạnh và tu hành lâu năm. Thế mà anh còn có những lời khiêm nhường đáng kính.

 

Thực ra tôi đã làm theo lời anh lâu rồi mà anh không để ý đó thôi. Trong những lời khuyên cha mẹ, anh chị em, bạn hữu niệm Phật, tôi có nhiều lần cầu xin những lời khuyên chân thành này cũng đến với tất cả những ai hữu duyên, giúp cho người thấy phần nào chân tướng của vũ trụ nhân sinh, hầu sớm phát tâm Bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm “Nam mô A-di-đà Phật”. Hàng ngày tôi niệm Phật, có chút công đức nào cũng đều hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh, cầu nguyện cho tất cả mọi người sớm có ngày giác ngộ, sớm được độ thoát.

 

Như vậy, những lời thư này không còn là lời khuyên của riêng Diệu Âm nữa, nếu ai hoan hỷ tiếp nhận thì nó sẽ biến thành lời khuyên của chính họ, của người con đối với cha mẹ, của người thân đối với thân bằng quyến thuộc. Trong thư anh viết, “… Mẹ tôi nghe băng ‘Khuyên người niệm Phật’ thì cũng chịu lắm…”. đọc thư khuyên người niệm Phật mà ‘cũng chịu lắm’, thì Cụ Mẫu và Diệu Âm đã có chút duyên với nhau: ‘Duyên của người làm con khuyên mẹ’. Mỗi lần anh mở máy cho Cụ nghe băng “Khuyên Người Niệm Phật” là một lần anh khuyên Cụ niệm Phật. Những lời ấy là lời của chính anh Thiện Khánh. Tôi khuyên, anh khuyên. Chúng ta hãy cùng nhau khuyến tấn, tạo điều kiện thuận lợi cho cha mẹ, bà con, thân thuộc mình niệm Phật vãng sanh.

 

Anh viết tiếp: “… chỉ xét tôi làm con mà còn dở đủ thứ…”, thì xin thưa rằng, cái dở của một người con chân thành khuyên mẹ niệm Phật, cầu cho mẹ được vãng sanh Tây-phương, thì cái dở này thật sự quá hay. Muốn giác ngộ được một người đâu phải dễ! Anh vì chữ hiếu đã tận hết khả năng và phương tiện để làm tròn đạo nghĩa làm con, thì cái dở của anh đã trở thành quá giỏi, quá quý, cái quý nhất trong những cái quý báu mà trong thiên hạ chưa chắc đã có ai sánh bằng. Thử đem so sánh với những cái hay của những người con khôn lanh, biện bác, ưa triết lý, chỉ biết ôm lấy những thứ thế tục thường tình để sống. Đã mê mờ lý đạo, mà lại tự cho mình là thông minh trí huệ! Họ cản ngăn cha mẹ niệm Phật, không những làm cha mẹ mất phần giải thoát, mà còn khiến cho người phải chịu đọa lạc nhiều kiếp số trong chốn khổ nạn… thì cái hay đó phải chăng là một thứ dở, dở đến chỗ tàn tệ, tai hại, tội lỗi?!…

 

Tục ngữ nhân gian thường nói, “Trẻ đi ra, già đi vô”. Tuổi trẻ nông nổi, ưa chạy theo thế tục, bông lung tạo nghiệp. Tuổi già hiểu đạo, chán ngán cảnh đời, trở về lo tu tâm dưỡng tánh. Vì thế, cha mẹ khuyên con cái tu hành thì thường thấy, còn con cái lo chuyện tâm linh cho cha mẹ thì khá hiếm hoi! Cho nên, trên đời này, những người tuổi già mà có những người con lo lắng việc tu hành cho mình thì thật là đại phước, đại duyên, đại thiện. Cái đại phước thiện này chính là cuối đời mình được có người sát bên cạnh để hộ niệm, hướng dẫn, gỡ rối, giải tỏa ách nạn, bảo vệ an toàn cho mình vãng sanh. Vãng sanh được thì một đời thành tựu cứu cánh giải thoát. Có cái phước báu nào lớn hơn? Có cái thiện duyên nào lớn hơn?…

 

Cứ thử so sánh ở những người mà có những người con mê muội, ngổ nghịch, không biết tu hành. Chúng thường bỏ rơi cha mẹ trong những tình huống đau khổ nhất, bi thương nhất. Mình thì nằm một chỗ chờ chết, bị nghiệp chướng hành hạ đau khổ vô song, oan gia trái chủ đánh phá kinh hoàng, trong khi con cái thì phớt tỉnh, chẳng bận tâm ngó ngàn! Có lâm nạn mới thấy khổ nạn! Khổ nạn mà không có ai để nương nhờ mới thấy tủi thân! Sự tủi thân này quá lớn!

 

Nói đến oan gia trái chủ, chúng ta cũng đừng quên kể đến những đứa con không biết tu hành, những người thân mê mờ đường đạo. Họ cũng có lý trí, có lòng thương, có tâm hiếu, nhưng thường vô tình gây hại thê lương cho người thân thuộc. Bằng cách nào? Chống phá việc niệm Phật, ngăn cản sự hộ niệm, làm đoạn mất đường vãng sanh… Còn gì nữa? Khóc lóc, than vãn, giành giựt, níu kéo, khuấy động thân xác,… họ làm đủ trò sai lầm lúc lâm chung, khiến cho cha mẹ phải vào ba đường ác, chịu đọa lạc vạn kiếp. Có sự đau khổ nào lớn hơn!

 

Nhân sinh chữ hiếu làm đầu. Xin khuyên rằng, làm con chớ nên khinh bạc cha mẹ. Dù mình không rõ đạo pháp, thì cũng chớ nên tùy thuận theo những tư tưởng phàm tục mà làm sai lời Phật dạy. Biết khiêm nhường mới tiến bộ, hiếu đạo mới thiện lành. Đừng nên tự mạn, cố chấp vào thành kiến cá nhân mà nhiều khi gây nên tội ác quá lớn đối với đấng sanh thành. Nên nhớ, nghĩ thì ai nghĩ cũng được, còn đúng thì không phải nghĩ gì cũng đúng đâu. Nên biết làm theo lời Phật dạy để cứu song thân, cứu bà con, cứu chính mình trong mai hậu.

 

Trong chuyến đi Pháp vừa qua, tôi có dịp đến thăm một bà cụ trên 80 tuổi, tâm tánh hiền lành. Cụ phát tâm đi cầu siêu tụng đám cho những người Việt Nam chết. Thế mà chính cụ lại không tin tưởng rằng con người trong đời này có thể được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc. Tuổi già sức yếu, bỗng nhiên chỉ qua một đêm thì cụ không còn đi được. Rrồi một đêm khác, cũng bỗng nhiên âm giọng của cụ bị tắt ngang không nói được nữa, mặc dầu tinh thần cụ vẫn tỉnh táo, nghe rất rõ. Cụ tiếp chuyện bằng cách viết ra giấy. Tôi tới thăm cụ khi tình trạng đó vừa mới xảy ra được vài hôm. Nhìn thấy tình huống như vậy, tôi thấy thời hạn có lẽ khá khẩn trương! Tôi khuyên bà cụ mau mau niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh, cứ một đường đi, một hướng về. Buông xả vạn duyên, buông xả sự đời, không sợ chết, không lưu luyến con cháu, nhà cửa, thế sự gì cả… Nếu thành tâm niệm Phật, giữ chắc câu A-di-đà Phật ngày niệm đêm niệm, tha thiết cầu xin về Tây-phương. Cứ làm vậy thì cụ sẽ được vãng sanh.

 

Cụ rất thích nghe pháp, những cuộn băng cassettes giảng pháp khắp nơi cụ có khá nhiều. Tôi khuyên cụ, nếu muốn được về tới Tây-phương thì giờ đây những băng pháp này chắc chắn không còn hiệu lực, hãy mau mau gói kỹ nó lại, không nghe nữa. Dành tất cả thì giờ mà niệm Phật, nhất định không để phí một phút giây nào rời câu Phật hiệu. Quyết làm như vậy mới có thể thoát nạn và cơ hội cho cụ vãng sanh Tây-phương Cực-lạc vẫn còn nhiều hy vọng. Cụ là người biết tu, nên phát lòng tin tưởng, chấp nhận lời đề nghị của tôi khá dễ dàng.

 

Tôi cũng khuyên mấy người con hãy mau mau tổ chức niệm Phật chung với cụ, tôi mời các vị đồng tu hãy sớm tới hộ niệm cho cụ. Không ngờ, trong khi con cháu, đồng tu chưa kịp tổ chức hộ niệm, thì khoảng 10 ngày sau cụ đã vĩnh biệt trần gian. Thật quá vô thường!

 

Trước giờ phút lâm chung, chúng tôi có tới bệnh viện hướng dẫn, nhắc nhở, hộ niệm cho cụ. Một số đồng tu cũng sốt sắng tới niệm Phật. Bà cụ rất mừng khi nghe chúng tôi tới giảng giải về việc vãng sanh. Nhưng đáng tiếc, người nhà chưa đủ lòng tin, người con trai của cụ thì lo sợ rằng đông người sẽ không tốt cho người sắp chết!!!… Thật đáng thương! Rõ ràng cơ duyên vãng sanh đã tới nơi mà vẫn bị chướng ngại, làm cho sự hộ niệm không được hoàn chỉnh. Chúng tôi vẫn cố gắng nhắc nhở cụ nhớ đường đi nẻo về và khẩn thiết niệm Phật cho cụ được 5 giờ sau khi tắt thở. Sắc tướng cụ khá tươi nhuận, mềm mại. Dù sao, đây cũng là một điềm lành ít thấy ở đó. Xin cầu nguyện cho cụ có được phần vãng sanh Cực-lạc.

 

Tuổi già mạng sống trong làn hô hấp! Người già cả hãy mau mau buông xuống tất cả để lo niệm Phật vãng sanh, nếu chần chờ thì không còn dịp để nói lời ân hận! Hộ niệm quan trọng lắm, lợi lạc lớn lắm. Hộ niệm rất cần đến kinh nghiệm khai thị và sự nhạy bén về tâm lý để tránh những sơ suất đáng tiếc xảy ra. Ví dụ, có một lần chúng tôi hộ niệm cho một chị vãng sanh. Hai ngày trước khi ra đi, chị thường hỏi người nhà rằng vị thầy thường tới hộ niệm đâu rồi, đã tới chưa, sao nay không thấy tới… Mỗi lần Thầy tới thì chị vui, Thầy đi thì chị nhớ và nhắc đến mãi. Một đêm, vô tình tôi nghe nhiều người đang trò chuyện với nhau về chuyện này, họ khen chị có duyên với Thầy và mừng cho chị là cuối đời gặp một vị Thầy để nương tựa. Trong khi mọi người đang tán thán chúc mừng, thì riêng tôi lại giựt mình lo sợ cho chị. Tối hôm sau, có tôi trong phiên hộ niệm, tôi nghiêm cẩn giải thích rõ cho chị biết rằng, nếu tới giai đoạn đang đối diện với sanh tử này mà chị không chịu nhiếp tâm niệm Phật, không chịu tưởng tới A-di-đà Phật, không chịu một lòng nguyện vãng sanh, không chịu buông bỏ cảm tình, còn giữ những tư tưởng thế tục, còn nghĩ nhớ đến người này người nọ, thì chị có thể bị lạc đường, dù người đó là một vị tăng đức độ, một vị Bồ-tát tái lai. Nếu không thức tỉnh, không chú tâm niệm Phật, dù chúng tôi có cố gắng hộ niệm nhiều đến đâu đi nữa, chị cũng khó có phần vãng sanh. Nên nhớ, ngoài A-di-đà Phật, không có ai có thể tiếp độ mình về Tây-phương được cả. Tất cả những người tới hộ niệm chỉ là duyên trợ lực chứ không phải là người cứu độ. Tâm nguyện đi về với Phật thì khi Phật A-di-đà tới mình đi theo Phật, lúc đó có người hộ niệm bên cạnh thì tốt, nếu không có thì mình vẫn theo Phật vãng sanh, chứ không phải cứ để tâm ngóng chờ người tới niệm Phật. Phải nhớ thật kỹ điều này, nhất định không có tư tưởng nào khác ngoài việc niệm Phật cầu nguyện vãng sanh. Thân mạng này nó đã có phần số, tới giờ đi phải đi, đừng sơ ý mà luống qua cái thời điểm bất ngờ này.

 

Hơn nữa, nên nhớ rằng, trong số oan gia trái chủ, hoặc chúng sanh trong nhiều cảnh giới khác đôi khi họ có năng lực giả dạng luôn cả hình tướng của Phật để gạt chúng ta, chứ cần chi đến hình tướng của một vị Tăng. Tâm của ta đang nghĩ gì họ có thể biết được. Tâm đang nhớ đến một vị Thầy, thì coi chừng vi Thầy đó sẽ tới, sẽ an ủi, sẽ dẫn dụ mình đi, nhưng thực tế đâu phải là vị Thầy đó. Cho nên, người trước phút lâm chung phải vững tâm niệm A-di-đà Phật, một lòng nguyện sanh về Tây-phương. “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, mỗi khi thấy bất cứ hình ảnh gì khác, cũng phải quán chiếu rằng đó đều là hư huyễn, đừng tham đắm, đừng sợ hãi. Cứ nhiếp tâm niệm A-di-đà Phật, đẹp cũng niệm A-di-đà Phật, xấu cũng niệm A-di-đà Phật. Hiền cũng niệm A-di-đà Phật, dữ cũng niệm A-di-đà Phật. Một lòng giữ chắc câu Phật hiệu, không cần lo lắng hoặc để ý tới những hiện tượng gì khác thì tự nhiên được an toàn. Không có thế lực nào không tan biến khi ta niệm A-di-đà Phật và không có một thế lực nào dám giả dạng A-di-đà Phật để gạt ta. Cho nên, khi thấy A-di-đà Phật tới thì ta an tâm mà theo Phật vãng sanh.

 

Xin nhắc lại, có những người khi bệnh nằm trên giường thường có tâm trạng ngóng trông hoặc nhớ nghĩ đến những người mình thương mến: đứa con ở xa chưa về, đứa cháu nội thường quấn quýt bên cạnh, một vị tăng đức độ, người y tá tận tụy thuốc thang, v.v… và v.v… Nếu sơ ý luyến lưu những chuyện này, lỡ bất ngờ xả bỏ báo thân thì sẽ bị chướng ngại, hoặc lạc đường, hoặc vướng bẫy, hoặc không tương ưng với bản hoài của Phật, đưa đến hậu quả mất phần vãng sanh. Có những trường hợp rất nguy hiểm cho thần thức, dù cho sau đó có người tới hộ niệm đi nữa cũng chưa chắc sẽ cứu vãn được. Còn nữa, tiền bạc, nợ nần, nhà cửa, sự nghiệp, ước mơ… tất cả đều phải bỏ hết, không được nghĩ tới. Phải niệm Phật, tha thiết được vãng sanh Cực-lạc, dứt khoát không do dự thì mới có thể cảm ứng đạo giao, mới hợp với nguyện lực của Phật, mới tiếp xúc được Phật quang, mới được A-di-đà Phật tiếp độ vãng sanh.

 

Sẵn đây cũng xin kể một chuyện khác cũng khá hay. Ở Pháp, có một đồng tu khi nghe nói về hộ niệm thì hơi ngỡ ngàng, đến gặp riêng tôi và kể cho tôi nghe về một giấc mộng. Anh kể rằng, khi cha anh mất, sau đó về báo mộng cho anh biết là ông đã được về với Phật, sướng lắm. Ông khuyên anh hãy cố gắng làm lành lánh ác, rồi chờ khi chết ông sẽ về tiếp dẫn vãng sanh. Nhờ giấc mộng này, cho nên trong những ngày tháng qua anh khá an tâm, không lo lắng gì lắm và yên chí rằng, khi mình chết thì cha mình sẽ về tiếp dẫn vãng sanh.

 

Nay nghe tôi nói, khi lâm chung chỉ theo A-di-đà Phật, không được theo ai cả, làm cho anh cảm thấy khó nghĩ, không biết giải quyết làm sao? Và, anh hỏi tôi, nghĩ như thế nào về giấc mộng đó?

 

Tôi nói, giấc mộng của anh nghe qua có vẻ khá đẹp, nếu mọi sự đều đúng như vậy thì tốt lắm, xin mừng cho anh. Nhưng giả như, nếu tương lai sự việc xảy ra không đúng như vậy thì anh sẽ làm sao đây? Kiếp nạn đời đời của anh ai sẽ là người hứng chịu? Một người tự xưng là cha của mình trong giấc mộng, nhưng anh có dám bảo đảm rằng người đó quả thật là cha của anh hiện về không? Tôi nói như vậy làm cho anh hơi giựt mình!…

 

Học Phật, thì tất cả mọi chuyện chúng ta nên lấy kinh Phật làm ấn chứng thì mới thấy rõ vấn đề hơn. Trong giấc mộng, “Một người cha” về báo cho biết là đã về với Phật. Nhưng xin hỏi là Phật nào?

 

Trong hư không pháp giới này, cảnh giới trùng trùng vô lượng vô biên, mỗi một vị Phật đều có quốc độ giáo hóa riêng. Ngay cõi Ta-bà này cũng là một quốc độ của Phật, giáo chủ chính là đức Thích-ca Mâu-ni Phật. Nhưng nếu ta muốn ở lại chốn này thì đức Phật không khuyến khích. Ngài khuyên tất cả chúng sanh đừng nên lưu luyến thế giới Ta-bà này, vì đây là cõi ngũ trược ác thế. Ham thích chốn này thì khó trốn khỏi đọa lạc về sau. Như vậy, ở lại đây có tốt lành gì đâu mà khoe! Thế giới trùng trùng, nhưng mỗi sát độ đều có danh tự, nơi chốn hẳn hoi, chứ đâu thể nói khơi khơi được.

 

Còn nếu ông cụ đã vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc của đức Phật A-di-đà, thì sao không nói rõ là ta đã vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc, ở phẩm vị nào? Người ở Tây-phương thì phải khuyên niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh-độ, chứ sao lại chỉ khuyên “Làm lành lánh ác!”. Xin hỏi, làm lành là làm như thế nào? Thiện lành có chánh có tà, có lớn có nhỏ, có thẳng có vẹo, có thực có giả, có âm có dương, v.v… làm đúng mới lành, làm sai thành ác. “Từ bi đa họa hại”, làm lành mà thiếu sáng suốt vẫn có thể gây nên tội lỗi lớn. Còn lánh ác là lánh ở đâu? Cõi năm trược ác hiểm này lánh chỗ nào cho tránh khỏi tạo nghiệp?

 

Chờ lúc chết ta sẽ về tiếp dẫn vãng sanh”, đây thật là một đạo lý rất lạ lùng! Yên chí chờ chết sẽ có người đến dẫn mình đi, mà chính mình không biết người đó là ai thì thực sự quá nguy hiểm! Trong kinh Phật, có kinh nào Phật dạy rằng chúng ta lúc chết hãy chờ người chết về tiếp dẫn đâu? Người được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc, thì đáng lẽ phải nói rằng, ta sẽ tùng theo A-di-đà Phật tới đón con mới đúng đạo. Đâu có đạo lý nói rằng một Thánh chúng ở cõi Tây-phương Cực-lạc có thể đại diện cho đức A-di-đà Phật đơn thân đến các quốc độ để tiếp dẫn người thân. Vãng sanh Tây-phương đương nhiên là nhập vào hàng Thanh-tịnh hải chúng, đã khai trí huệ, làm gì có thể nói lời sơ suất quá đáng như vậy!

 

Câu chuyện này có lẽ là một bài học khá hay, nhất là đối với những người thích cầu ứng mộng, hoặc bày hình thức này nọ để tìm hiểu thử người thân đã chết của mình đang ở đâu. Xin chư vị hãy cẩn thận! Vì ngoài cái vọng tâm của mình ra, còn có cái vọng tâm bên ngoài. Vọng cảm ứng với vọng. Tâm vọng thì tự mình đã làm cho đường tu hành của mình bị lạc rồi vậy. Đời mạt pháp vàng thau lẫn lộn, thật thì ít mà giả thì nhiều lắm đó!…

 

Sẵn đây xin kể luôn, trước đây cũng có một chị đạo hữu khác nói với tôi rằng, chị biết bà nội của chị chắc chắn đã được vãng sanh Tây-phương Cực-lạc. Lý do? Theo như chị nói, trong lúc đang làm lễ nhập quan, ông bác của chị đã thấy một vị thần rất lực lưỡng, đen bóng như than, chạy vô cõng bà cụ chạy ra ngoài rồi biến mất. Nghe nói tôi làm thinh(!). Biết chị đã lầm nhưng tôi cũng chưa có dịp giải thích. Trong kinh Phật không có nói đến sự tiếp độ vãng sanh như vậy.

 

Những việc liên quan đến Phật pháp, xin chư vị đừng nên cho là quá đơn giản mà dẫn đến sự hiểu lầm. Từ hiểu lầm này truyền ra hiểu lầm khác.hãy cẩn thận lấy kinh điển ấn chứng thì an tâm hơn, tránh được những lầm lạc đáng tiếc về sau.

 

Nằm mộng, chiêm bao ai cũng có, đây là sự thật. Nhưng cũng có lúc chỉ vì chúng ta mơ tưởng nhiều quá mà sinh ra mộng mị. Trường hợp này nhiều lắm! Nhưng dù thật hay giả thì cảnh giới trong mộng vẫn là mộng, tất cả đều do tâm biến hiện ra. Đã do tâm biến hiện thì cảnh biến hiện đó là huyễn chứ không phải thực. Nếu chúng ta cứ để tâm chạy theo mộng mị thì rất dễ vướng mắc vào cái hư vọng mà mất đi phần sáng suốt! Sống theo vọng thì tâm khó được thanh tịnh. Không thanh tịnh thì tâm lại càng vọng động hơn. Vọng biến thêm vọng, khó thể có ngày thành tựu đạo giải thoát.

 

Tuy nhiên, biết rằng cảnh giới trong mộng la hư vọng, nhưng thực tế thì cái hư vọng này lại chính là sự biến hiện từ tâm mà ra. Sự biến hiện từ tâm thì chủ tể của cái vọng này là tâm, chứ không phải là cảnh giới trong mộng. Cảnh giới trong mộng chỉ là cái ảnh phản chiếu của cái tâm mà thôi. Ví dụ như ta đứng trước một chiếc gương, cái hình ảnh trong chiếc gương là giả, nhưng đó lại chính là hình ảnh của ta. Như vậy, cảnh giới trong mộng là chính trạng thái của tâm thức ứng hiện. Nghĩa là, cảnh giới hư vọng trong mộng chính là trạng thái đang vọng động của tâm. Tâm vọng hiện cảnh vọng, tâm chơn hiện cảnh chơn. Dù chơn hay vọng vẫn là tâm. “Toàn vọng tức chơn, toàn chơn tức vọng”, không thể tách rời. Chơn là tốt, vọng là xấu. Tốt cũng tâm mà xấu cũng tâm. Do đó, tốt-xấu, chánh-tà, Phật-ma… đều là chỗ hiện của tâm. Quán xét như vậy thì tâm-cảnh là một, không phải hai.

 

Vạn pháp duy tâm, thì chúng ta chớ nên phân biệt, chấp trước. Gặp cảnh tốt chưa chắc sẽ được tốt, gặp cảnh xấu chưa chắc sẽ bị xấu. Tốt xấu tùy tâm. Tâm tịnh cảnh xấu biến thành tốt. Tâm loạn cảnh tốt biến thành xấu. Ví dụ, người thấy điềm lành thì tốt, nhưng nếu vội tham đắm vào đó tức là chấp vào sự vô thường huyễn hóa. Huyễn hóa sẽ dẫn họ vào cảnh huyễn hóa. Chạy theo huyễn hóa thì xa lìa chánh giác.

 

Niệm Phật, có người cảm ứng được cảnh giới Tây-phương Cực-lạc. Được như vậy là điều tốt. Thấy cảnh giới tốt đẹp, thì biết sự dụng công tu hành của mình có được chút ít thành quả, tâm có một mức thanh tịnh nào đó. Tuy nhiên cũng nên nhớ, cái gốc của thắng cảnh này chính là tâm chân thành thanh tịnh cảm ứng ra, chứ không phải là một quyền lợi nào đó bên ngoài ban cho. Nghĩa là, ta thu lại được một chút ít vốn luyến sẵn có của chính ta chứ không có gì khác. Vậy thì, phải hàm dưỡng công phu tu tập, giữ tâm càng thêm thanh tịnh hơn, tin tưởng vững chắc hơn, niệm Phật tinh tấn hơn, buông xả nhiều hơn thì chắc rằng sẽ hưởng được thêm nhiều lợi ích.

 

Nhưng nếu vội vã tham đắm vào đó, chạy đi khoe rằng mình đã chứng đắc, đã thấy Phật, đã được Phật thọ ký rồi, v.v… thì lại biến ra một vấn đề khác. Đây chính là người có sức định chưa đủ, không chịu đựng nổi sự khảo nghiệm của cảnh giới, nên mới vừa thấy một điều gì lạ thì mừng khấp khểnh mà tham chấp vào. Vừa mới tham chấp, thì tánh kiêu mạn nổi lên, tâm liền bị thối chuyển, từ chỗ chân thành, thanh tịnh đã nhanh chóng biến thành loạn động! Tâm tịnh quốc độ tịnh, tâm loạn quốc độ loạn. Cảnh giới trang nghiêm bỗng chốc biến thành hư vọng, bây giờ còn chăng chỉ là dư vang của cái phút chốc tâm thanh tịnh trước đây mà thôi. Nhưng khổ nỗi, vì tâm đã loạn thành ra không còn đủ sáng suốt để nhận ra điều thực hay giả, cảnh đã biến thành hư vọng từ lâu mà vẫn cứ đinh ninh tưởng rằng cảnh chơn chánh thù thắng.  Đây là một thiệt hại lớn lao khá đáng tiếc! Ấn Tổ nói: “… Dù có thấy thắng cảnh, nếu sanh lòng vui mừng tham trước cũng bị tổn hại, huống chi vị tất quả thật là thắng cảnh ư?”. Lời dạy này rất quí giá, nên để tâm suy nghiệm. Cho nên, tốt nhất vẫn là luôn luôn bình tĩnh, giữ tâm thật thanh tịnh, đừng nên vọng động mà ảnh hưởng không tốt đến con đường tiến tu đạo nghiệp của mình.

 

Phật dạy, “Tất cả đều do tâm tạo”. Cảnh vọng hiện ra thì biết rằng chính tâm ta đang vọng. Cảnh tùy tâm hiện, thì khi gặp cảnh giới xấu, chúng ta cũng không cần sợ, đừng nên chạy trốn. Ngộ được đạo lý duy tâm, thì từ những cảnh vọng này chúng ta hãy biết giựt mình tỉnh ngộ, mau mau quán chiếu lại tâm, hãy mau quay đầu hồi tâm tu sửa, đừng để tâm vọng tưởng nữa. Vậy thì, cảnh giới dù cho giả vọng, hư huyễn tới đâu cũng có thể lợi dụng để tăng thượng duyên cho mình tu tiến, nghĩa là vẫn được lợi lạc chứ không có hại. Ví dụ, khi mộng thấy một điều xấu ác, thì biết ngay sự tu tập của mình còn yếu hoặc có điều sai lạc. Hãy mau tìm cách điều chỉnh lại, chứ không phải sợ nó. Ấn Tổ nói: “Người có công hàm dưỡng, dứt hẳn tâm vọng động, khi thấy các cảnh giới, không vui mừng tham trước, hoặc sợ hãi nghi ngờ, thì dù có gặp cảnh ma vẫn được lợi ích, nói chi là cảnh nhiệm mầu?”. Quả thật chí lý.

 

Kính anh Thiện Khánh, anh bảo tôi viết vài lời khuyên thẳng tới cụ Mẫu. Nhưng thực tế tôi không biết gì để viết cho cụ. Tất cả những lời thư này Diệu Âm chỉ để “Khuyên Người Niệm Phật”, thì dù có viết gì đi nữa cũng chỉ là khuyên người niệm Phật thôi. Đi đâu tôi cũng chỉ khuyên người niệm Phật. Khi người đã phát tâm niệm Phật, thì coi như Diệu Âm đã làm xong tâm nguyện. Chơn tâm của chúng ta là Phật, nay ta niệm Phật là ta trở về với chơn tâm. Trở về được với chân tâm thì thành Phật. Niệm Phật Thành Phật, người đã đi trên con đường thành Phật rồi thì còn gì vui sướng hơn.

 

Lại có người hỏi rằng: Niệm Phật thành Phật. Như vậy, niệm Phật nào cũng được,chứ đâu cần gì phải niệm A-di-đà Phật?

 

Trả lời: Đúng đấy, niệm Phật nào cũng được, không ai bắt buộc phải niệm A-di-đà Phật. Niệm Phật, niệm chú, niệm kinh… tất cả đều sự tự nguyện, là sở thích, là niềm tin của chính mỗi cá nhân, chứ không ai bắt buộc. Tuy nhiên, chính đức Thích-ca mâu-ni Phật khuyên chúng sanh hãy niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tây-phương mới được vãng sanh Tây-phương. Chính vì vâng lời Phật mà ta phải niệm A-di-đà Phật. Còn như ta tự ý quyết định, trì niệm một danh hiệu Phật khác, cũng tốt. Nhưng xin chư vị đồng tu nhớ rằng, niệm các danh hiệu Phật khác là pháp tu tự lực, chính ta phải có đủ năng lực tự đoạn sạch nghiệp hoặc thì mới đắc quả. Nếu thiếu năng lực, không đoạn sạch nghiệp nổi thì chắc chắn phải rớt lại trong lục đạo để tiếp tục chịu sanh tử luân hồi. Hiện tượng tu hành thất bại đã xảy ra quá nhiều trong thời đại này. Lý luận thì hay, nhưng kết quả thì khá nỗi bi thương!…

 

Thực ra, đạo lý cũng dễ hiểu chứ không có gì khó khăn. Trong hư không pháp giới này, thế giới sống trùng trùng vô lượng vô biên. Thế giới nào cũng có chỗ cho chúng sanh nương thân. Tuy nhiên, muốn nhập cảnh nơi nào thì chúng ta phải hội đủ điều kiện của nơi ấy. Để cho dễ hiểu, hãy lấy hành tinh này làm điển hình. Trên quả địa cầu này có nhiều quốc gia, mỗi quốc gia đều có luật lệ qui định riêng. Ví dụ như, điều kiện để nhập quốc tịch Pháp là người phải tìm được một việc làm vững chắc tại Pháp và biết nói tiếng Pháp. Còn điều kiện nhập vào Mỹ là phải thông thuộc lịch sử nước Mỹ, phải có sẵn 500 ngàn đô-la. Ai muốn định cư ở Pháp thì theo điều kiện của Pháp, ai muốn ở tại Mỹ thì đáp ứng theo điều kiện tại Mỹ. Không thể lấy điều kiện ở Pháp đi qua Mỹ, và cũng không thể lấy điều kiện của Mỹ để xin vào Pháp được.

 

Vãng sanh Tây-phương Cực-lạc cũng tương tự. Phật dạy, Tín-Nguyện-Hạnh được vãng sanh Cực-lạc. Tín thì phải tin tưởng thật vững vào Pháp môn. Nguyện là tha thiết cầu nguyện vãng sanh. Hạnh là ngày đêm chấp trì niệm câu A-di-đà Phật. Đây là đại nguyện cứu độ chúng sanh của đức Phật A-di-đà và cũng là điều kiện cho tất cả chúng sanh, không kể trí độn, cao hạ, thiện ác, trong mười phương thế giới thực hiện để vãng sanh Tịnh-độ. Thế thì, người nào làm đúng điều kiện này được vãng sanh về với A-di-đà Phật, một đời này thoát khỏi tất cả khổ hải, tận hưởng an vui cực lạc, chờ ngày thành Phật. Nếu ai không làm theo, tu tạp nhạp đủ thứ, dù có giỏi cho mấy cũng khó có ngày hội nhập Tây-phương cảnh Thánh.

 

Như vậy, bị luống qua đời này, mất phần vãng sanh, không phải là tu giỏi hay dở, mà vì tu không đúng theo điều kiện vãng sanh. Hay nói rõ hơn, vì thiếu tín tâm, không tha thiết phát nguyện vãng sanh, không thành tâm niệm A-di-đà Phật, thành ra phải lăn lộn trong cõi luân hồi chịu khổ đau vô lượng kiếp. Tu hành xen tạp dễ mất phần giải thoát là vì lý do này. Biết vậy, thì xin hỏi, còn tiếc gì nữa mà không buông xả vạn duyên để niệm Phật vãng sanh?

 

Chúc cụ mẫu và anh Thiện Khánh đạt được đại thiện nguyện trong một đời này.

 

Diệu Âm kính thư.

(Viết xong tại Uc châu, ngày 23/3/2006)

 

 

Khuyên đặng hai người tu, sánh bằng mình tinh tấn.

Khuyên đặng hơn mười người, phước đức đã vô lượng.

Bằng khuyên trăm-nghìn người, gọi là chơn Bồ-tát.

Lại khuyên hơn số vạn, ta là A-di-đà.

(Bồ-tát Đại-Từ)

 

 

KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT

Mong tất cả chư vị cùng hiểu thấu vấn đề và nhận thức ra rằng, pháp Niệm-Phật thật sự thù thắng, rất hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Còn điểm mạnh của pháp Hộ-Niệm là hướng dẫn chúng ta thực hiện pháp Niệm-Phật một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác và kịp thời hóa giải những ách nạn, vượt qua chướng ngại để đi về Tây-Phương Cực-Lạc. Xin chư vị cố gắng giữ thật chặt cơ duyên này để vãng sanh thành tựu đạo quả.

– Cư Sĩ Diệu Âm Minh Trị –