KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT
Tác Giả: Cư sĩ Diệu Âm
Phật lịch năm 2547 / Dương lịch năm 2003
Tu Hành Ví Như Thi Cử
Kính cha má,
Khi hiểu được đạo pháp mới thấy tu hành cần phải cẩn thận, sơ hở một tí có thể chuyển xoay họa phước, hễ đúng thì phước, lệch thành ra họa. Vì thế nên người tu thì nhiều mà đắc thì ít. Cái khó nhứt là vì thời này đã mạt pháp rồi, tâm con người bị hoàn cảnh vật chất chi phối quá nhiều. Tâm trí bị ô nhiễm thành ra ai ai cũng thích chạy theo ảo vọng, ít ai lo chuyện giải thoát. Những người già cả, lớn tuổi, lụm cụm họ cảm nhận được sự hão huyền của kiếp người mới thấy mối tu đạo ló dạng. Nhưng tu hành lại quá khó, sơ hở là phạm luật, phạm giới, cho nên nếu mình thực sự muốn thành tựu đạo quả thì phải để tâm chú ý, chứ không nên tự mạn cho rằng mình đã thành công, đã có nhiều công đức.
Như cha má thấy, tu hành trọn đời chỉ cần một lần sân giận, nóng nảy là tất cả công phu đều bị tiêu hủy sạch trơn, bảy tám mươi năm tu tập trở thành số không mà người đó không hay, cứ đinh ninh là mình tu hành ngon lành, hơn nhiều người khác. Cái ngạo mạn nó đóng kín tâm trí lại làm cho họ tự đâm đầu vào ngõ cụt mà không hay. Còn hại hơn thế nữa, cứ một lần giận dữ thì lại cấy vào tâm thức mình một chủng tử địa ngục, khó gỡ ra được. Chủng tử địa ngục trong tâm nhiều hơn các thứ khác thì mình sẽ bị thọ báo ở địa ngục chứ làm sao tránh khỏi. Người tu hành cần ghi nhớ điều này, đừng bao giờ sanh tâm kiêu mạn. Chính Ngài Ấn-Quang Đại sư, vị Tổ thứ mười ba của Tịnh-độ Tông Trung-Hoa, một vị đại tôn sư mà lúc nào cũng tự nhắc nhở rằng công phu của mình còn kém. Cho nên, dù có tu hành nhưng xin cha đừng nên ỷ lại rằng mình đã tu lâu năm, mà còn phải để tâm chú trọng đến vấn đề là đường mình tu đi tới đâu? Có thành tâm chí thiết hay không?…
Niệm Phật là pháp môn tối vi diệu. Kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy mười câu niệm Phật tất vãng sanh, chỉ trừ người mang tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp. Nghĩa là, dù người có mang trọng tội đều có thể được cứu độ vãng sanh Tây-phương Cực-lạc Thế-giới nếu biết hối lỗi tu hành. Ngài Tịnh-Không nói, pháp môn niệm Phật thật quá đặc biệt, không thể bàn nghị tới được. Bất kể người có tội hay không, tội nặng hay nhẹ, miễn là biết quay đầu tỉnh ngộ, biết kiệt thành sám hối, biết chí thành tu sửa, thì dù có tội đọa địa ngục đi nữa vẫn được vãng sanh như thường. Đây không hẳn là công của chính mình mà là nhờ thần lực gia trì của Phật A-di-đà.
Thực tế, đây không phải là lời giảng của Hòa-Thượng, mà trong kinh Phật nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhất là các kinh luận Tịnh-độ. Cho nên, người mang trọng tội chắc chắn bị đọa địa ngục, nếu người đó muốn xuống địa ngục để xem thử vài ba vạn kiếp thì khỏi bàn tới, còn như muốn cầu thoát nạn thì vẫn còn kịp. Đó là Niệm Phật. Con xin thưa thẳng rằng thời đại mạt pháp này ngoài câu Nam-mô A-di-đà Phật ra khó tìm đâu ra một năng lực thứ hai. Xin cha má suy nghĩ kỹ, quyết tâm niệm Phật ngày đêm đừng lơ là buông xuôi nữa.
Biết thế mà con người vẫn không chịu tin. Đợi khi nào mới tin đây? Thư trước, con hứa sẽ nêu lên một vài thành tựu như “Thần Kỳ” trong pháp niệm Phật và nói rõ những nguyên do nào có người tu hoài không thành đạt, ngược lại có người thành đạt rất nhanh, rất rõ ràng.
Thưa cha má, tu hành phải xác định rõ mục đích, nếu mình chỉ muốn tu để kiếm chút phước đức nho nhỏ như cầu chút tiền, được trúng số, muốn mua mau bán đắt, được chút lợi lộc thế gian, thì những lá thư của con không có giá trị gì cả, vì con thấy rõ rằng con đường đó sẽ bị đọa lạc, sẽ bị khốn khổ về sau. Lúc vay thì cười hỉ hả, lúc trả tan rã thân tâm, than đâu cho thấu, khóc thầm không xong!
Cái chính của sự tu hành là cốt để giải bài toán giải thoát sanh tử luân hồi. Quý giá hơn nữa là làm sao vãng sanh được tới thế giới Tây-phương trong một đời này. Vì bài toán này quá khó, trên đời này không mấy ai giải được. Sự thật, khó thì khó nhưng rõ ràng có cách giải, có thể thực hiện được ngay trong đời này, tại vì người ta chưa thấy, chưa biết, chưa hiểu cho nên chưa đi được. Thế thôi.
Hôm nay, con cố gắng giải thích thêm, cộng thêm những chứng minh cho cha má, mong sao cha má thức ngộ chân tướng của sự thật mà hạ quyết tâm tu hành. Con cầu xin đức A-di-đà gia trì vào lời thư này để thức tỉnh cha má.
Thưa cha má, người tu hành mong cầu đạo ví như ngươi đi dự thi vậy. Lúc chưa thấy được phương pháp thì nghĩ muốn điên đầu mà nó vẫn rối bùng ben, nhưng một khi đã hiểu được rồi thì cách giải rõ rõ ràng ràng, minh minh bạch bạch. Một mạch, họ làm xong bài toán, họ đậu. Tu hành cũng vậy, một khi ngộ được lý đạo rồi thì cứ một đường thẳng tiến, sự thành đạo chỉ trong một đời này thôi chứ khó gì đâu! Thi cử, con xin nêu ra vài trường hợp sau đây:
*) Một là: Khi đã thấy được phép giải rồi thì người đi thi phải mau mau làm nhanh, một đường từ đầu chí cuối, phải tranh thủ làm để nộp bài đúng giờ. Chắc chắn thi đậu.
Đây là ví dụ cho những người tu hành ngộ đạo, đắc đạo. Trong Phật giáo, những vị Sư tu hành vào lúc thiếu niên và trung niên thường họ thử tu đủ cách, nhưng đến khi tuổi về chiều, quá 50 tuổi về sau, họ thường bắt đầu mới thấy rằng sự giải thoát là điều tối quan trọng. Giáo nghĩa kinh điển dù thông cho mấy, mà sự thoát ly trong đời này còn mờ mịt thì sự tu hành chưa phải là viên mãn. Cho nên một khi đã chợt ngộ ra đạo lý này hầu hết quý Ngài đều buông xuống tất cả, nhứt tâm quay về với câu Phật hiệu A-di-đà Phật để cầu vãng sanh Tịnh-độ trước rồi những chuyện khác sẽ tính sau. Hẳn nhiên cũng có người ngộ đạo theo các pháp môn khác, nhưng hầu hết đều quay về niệm Phật, vì niệm Phật nhờ lực gia trì của Phật mà vượt khỏi tam giới, rút ngắn được ba đại A-tăng-kỳ kiếp, về được tới Tâyphương Cực-lạc quốc. Đó là những người thật sự liễu giải Lý Sự của Phật đạo.
Nếu nghiên cứu trong rừng lịch sử Phật Giáo cha má sẽ rõ ràng chuyện này, nhiều vị Sư niệm Phật mà đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, biễu diễn sự ra đi đúng như câu nói “duhí-thần-thông”. Chuyện này nhiều lắm con không thể kể hết ở đây được. Khi nào có ghé chùa xin mua những quyển như “Mấy-điệu-sen-thanh”, “Vãng-sanh-ký”, “Chuyện-vãng-sanh”, “Tịnh-độ-Thánh-Hiền-lục”, v.v… để coi thì biết.
Tu sĩ được như vậy, còn người thường, cư sĩ thì sao? Thưa cha má, người nào tu người đó đắc. Trong thế kỷ hai mươi vừa qua, Ngài Hạ-Liên-Cư là một cư sĩ, Ngài chỉ niệm A-diđà Phật, khi vãng sanh Ngài mời bạn bè tới dự tiệc chia tay rồi đứng giữa chánh điện chắp tay mà thoát hóa, vui vẻ thoải mái. Người biết trước ngày ra đi, đứng cười mà thoát hóa như trò đùa vậy, đây chẳng phải là chuyện “Thần-kỳ” sao?
Chuyện này cũng chưa lạ, thường ngày Ngài có nuôi một con chuột, khi Ngài kinh hành niệm Phật con chuột lắc lẽo đẽo theo sau, giống như ở quê trẻ em nuôi chim se sẻ, khi khôn lớn nó cứ nhảy nhảy theo sau vậy đó. Đến khi Ngài đứng vãng sanh thì thấy nó đã vô chiếc giày của Ngài và đứng vãng sanh theo. Đây đúng thật là chuyện “Thần-kỳ” của thế kỷ!
Trong kinh Phật nói, tất cả chúng sanh nhứt tâm xưng niệm A-di-đà Phật thì được vãng sanh. Chuột là chúng sanh, nó niệm Phật thì nó được vãng sanh và nó cũng được bình đẳng thành Phật ở Tây-phương. Đây là chuyện có thực. Con chuột này, chắc chắn trong đời trước nó là con người có tu Phật, niệm Phật thành thục rồi, nhưng lúc lâm chung sơ ý nẩy lên một niệm ngu si, dại dột nào đó mà lọt vào đường súc sanh, may mắn là gặp được Ngài Hạ-LiênCư cứu độ, chứ giả sử như sinh ra rồi đi lang thang, gặp phải chú mèo thì tiêu đời rồi, biết kiếp nào nữa mới thoát đây?…
Cách đây cỡ hơn mười năm ở Đài-Loan, có một lão cư sĩ tên là Lý-Bỉnh-Nam vãng sanh. Ngài là học trò của Tổ sư Thích-Ấn-Quang, vị Tổ sư thứ mười ba của Tịnh-độ Tông Trung-Hoa. Cuộc vãng sanh của Ngài, cả nước Đài-Loan đều thương tiếc. Hằng ngày, hơn sáu trăm người vì nhớ tưởng ơn Ngài cứu độ, đến niệm Phật hộ niệm trước linh cữu trong bốn mươi chín ngày liền, ngày đêm không gián đoạn. Ngài chỉ là một người thường nhưng có những vị Hòa-Thượng phải đảnh lễ, bái làm Thầy. Ngay Hòa-Thượng Tịnh-Không, vị thượng thủ Tịnh-tông thế giới cũng bái Ngài làm thầy và thọ giáo mười năm. Ngài là người niệm Phật và dạy người ta niệm Phật cầu sanh Tây-phương. Trong đời, Ngài cứu độ hơn năm trăm người thực sự được vãng sanh về Tây-phương. Chỉ là một công chức bình thường, nhưng khi vãng sanh có tới khoảng sáu trăm người tự nguyện ngày đêm hộ niệm suốt bốn mươi chín ngày, hàng ngàn người quỳ lạy tiễn đưa linh cửu, hàng triệu người khắp nơi thương tiếc. Phước đức này đâu phải tầm thường, xưa nay dễ ai có được. Phải chăng đây là một chuyện “Thần-kỳ”!
Ngay hiện tại đây, ở đây có một vị tu sĩ hiệu là Thiện-Huệ. Trước đây, Ngài là con rể của Phối-Sư Trần-Quang-Vinh, thống lãnh quân đội Cao-Đài. Ngài tu Cao-Đài ngay trong nội Thánh-Thất Tây-Ninh hơn ba mươi năm, là giáo sư Pháp văn cho trường trung học CaoĐài hơn ba mươi năm. Trong Thánh-Thất, Ngài có tham gia tổ chức rất nhiều đàn cơ, có lúc tự làm Điển-Ký đàn cơ. Thế nhưng sau cùng Ngài lại thấy được sự giải thoát của đạo Phật và đã xuất gia học Phật hơn hai mươi mấy năm nay. Ngài kiến lập được hai ngôi chùa ở MỹTho. Trong chuyến viễn du ra nước ngoài vô tình Ngài gặp được lời pháp của Hòa-Thượng Tịnh-Không và trực ngộ ra câu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Từ Canada Ngài bay thẳng qua Úc để xin gặp mặt Hòa-Thượng Tịnh-Không và Ngài xin bái Hòa-Thượng Tịnh-Không là SưPhụ. Còn hơn thế nữa, Ngài còn thường xuyên ngồi nghe thầy Ngộ-Thông là đệ tử của HòaThượng Tịnh-Không thuyết pháp.
Một vị tu sĩ tám mươi mốt tuổi, lại lắng nghe pháp của một thầy, tuổi đời nhỏ hơn con mình, tuổi đạo chỉ bằng học trò mình. Người bình thường đâu có khả năng làm được chuyện này! Người bình thường, phàm hễ được chút tuổi, chút chức sắc danh vị, họ tự mãn với công phu tu tập năm, sáu mươi năm, họ ngất ngưởng trên cái ngôi sư phụ để cho hàng đệ tử quỳ lạy cung phụng, chứ ai dại gì đi bỏ cái danh vị ấy để cúi mình bái người khác để cầu đạo giải thoát!!! Thế mà Ngài Thiện-Huệ làm được, đây đâu phải là người thường! Tâm phục, khẩu phục! Có những lần Ngài dám mạnh dạn nói rằng: “Năm, sáu mươi năm tu hành của tôi trước đây coi như không có gì hết, bây giờ tôi mới biết là mình thực sự bắt đầu tu hành!”.
Thưa cha má, đây chính là những con người giác ngộ đường tu, đã nhìn được thấu và buông được trót. Nhìn chưa thấu thì buông không được, buông không được thì vô phương cứu vãn vậy.
*) Hai là, có nhiều người ngộ được đường đi, họ sung sướng quá cứ ngồi đó rung đùi lo hưởng cái thú vị khám phá ra chân lý, đến khi kiểng đánh cái “boong”, giựt mình nhìn lại thì ngỡ ngàng vì bài làm của mình vẫn còn là tờ giấy trắng!…
Điều này ví dụ cho những người ngộ đạo mà rớt đài một cách oan uổng! Thật quá oan uổng! Cái lý thì nói oang oang rất hay nhưng chính mình thì không chịu hạ thủ công phu tu tập. Chắc cha má cũng thường thấy những người như vậy, có ích gì cho đạo giải thoát đâu! Xin cha má nên nhớ rằng, “Lý-Đạo” có thể đốn ngộ, nhưng “Sự-Đạo” cần phải tiệm tu thì mới thành đạo. Nghĩa là, người có thể trực nhận ra được đường đi, nhưng phải đi, phải thực hành gấp, phải tinh tấn kiên trì, chuyên tu thì mới thành đạo được. Người hiểu ngộ lý đạo mà không đi thì cũng hoàn không. Chính vì vậy mà con đây vừa tranh thủ thời gian viết thư cho cha má, vừa ngày đêm niệm Phật chứ không dám lơ là. Con khuyên cha má tu hành nhưng chính con không chịu niệm Phật, thì con vẫn phải chịu số phận hẩm hiu như thường.
Thầy Thiện-Huệ khi vừa mới tới đây, Thầy liền cho dán lên tường câu, “Nói nhiều không bằng nói ít, nói ít không bằng nói một câu, nói một câu không bằng KHÔNG NÓI”.
Thầy trương lên để cảnh tỉnh mọi người thì chắc Thầy phải làm, nếu không làm thì Thầy cũng chờ nộp tờ giấy trắng vậy thôi!
Thầy Thiện-Huệ năm nay hơn tám mươi tuổi đời, sức đã yếu, thầy vẫn cố gắng đi kinh hành niệm Phật một ngày tám tiếng, đi không nổi thì Thầy lạy Phật. Thân lạy Phật, Tâm tưởng Phật, Miệng niệm Phật. Thân Khẩu Ý chuyên nhất hướng về A-Di Đà Phật đó gọi “nhất tâm niệm Phật” để cầu vãng sanh. Còn Hòa-Thượng Tịnh-Không thì dạy: “Đa nhất sự bất như thiểu nhất sự, thiểu nhất sự bất như vô sự. Lão thật niệm Phật”. Suốt ngày, ý Ngài ở trong kinh, tâm Ngài trụ ở câu Phật hiệu. Rõ ràng tư tưởng lớn gặp nhau. Những người có chí khí dũng liệt họ đâu thèm tranh giành những thứ hão huyền của thế gian mộng huyễn.
Cha ơi! Cha thường dạy con rằng: “Phật-tức-Tâm, Tâm-tức-Phật”, thì bây giờ đừng thèm nói câu này nữa mà mong cha má hãy làm câu này đi. Thành Phật hay không là làm chứ không phải nói. Phật tức Tâm nghĩa là hễ Phật có gì thì tâm mình có cái đó. Phật vô sanh tử thì tâm vô tử sanh; Phật giác ngộ thì tâm mình vốn có sáng suốt; Phật thiện lành thì tâm mình vốn không ác; Phật thanh tịnh thì tâm mình vốn an lạc… Tâm tức Phật là tâm thiện lành là Phật; tâm thương người là Phật, tâm buông xả, chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi.. là Phật. Phật tức tâm là “Thị-Tâm-thị-Phật”, tâm tức Phật là “Thị-Tâm-tác-Phật”. Cho nên, hễ “tâm mình LÀ Phật thì tâm mình phải LÀM Phật”, mà “tâm mình LÀM Phật thì chính tâm mình LÀ Phật” chứ còn gì nữa. Đó chính là cái đạo lý “Duy tâm sở hiện” đó cha má ạ.
Cha thường nói “Tâm CHÁNH là Phật, Tâm TÀ là Ma” thì cũng cùng ý nghĩa này, tất cả đều do tâm mình hiện ra. Tâm Chánh tức là tâm niệm Phật, ý tưởng Phật. “Ý Phật Niệm Phật, hiện tại tương lai nhất định thấy Phật”. Tâm, khẩu, ý, chuyên nhất hướng về Phật thì chắc chắn mình sẽ về Tây-phương để thành Phật chứ không đi đâu nữa cả. “Nhất thiết duy tâm tạo” thì học Phật ta hãy làm Phật chứ đừng làm cái gì khác, làm cái gì khác tức khắc mình sẽ thành cái khác đó liền. Đây chính là cái đạo lý “Vạn Pháp duy tâm”, điều mà cha thường dạy con vậy.
“Tâm Tà là Ma”. Tâm Tà là sao? Ví dụ, sân giận là cảnh giới địa-ngục, người thường nóng giận thì tương lai sẽ về địa-ngục; tham lam là cảnh giới của ngạ-quỷ, người có tâm tham lam, chỉ thích tiền, mánh lới lừa lọc để được tiền thì chắc chắn sanh làm ngạ-quỷ; si-ám mê muội trở thành súc-sanh.
Thế nào gọi là si mê? Ví dụ như người suốt ngày cứ say sưa làm cho tâm thần hôn ám, hoặc khi lâm chung luyến tiếc cái nhà mới xây, còn ngại gia tài lớn không ai lo, sợ tiền nợ người ta không trả… đó là những cái niệm ngu si dại dột, nhanh chóng đưa mình đầu thai vào hàng súc sanh. Ví dụ, như con đã nói, vào bụng con chó của người hàng xóm. Khi con chó sinh ra, nó có linh cảm thích vào cái nhà đó để chờ con cháu liệng ra cục xương. Đôi lúc thật oái oăm, lại bị chính con chó mà tiền thời mình thương yêu cưng chìu, nó dí cắn chạy quắn đuôi! Tất cả những hành động hay tư tưởng đưa ta vào tam ác đạo gọi là “Tâm-Tà” hoặc là “Tâm-Ma” vậy!
Tâm tà nó còn bao hàm những chuyện tế vi hơn, nếu không chú ý không thấy. Ví dụ như, người tới chùa để cầu phước lộc, cầu trúng số, cầu khỏe mạnh, cầu buôn bán nhiều lời… cầu nguyện này không có ác, nhưng đó là lối tu tự tư ích kỷ vẫn là tham-lam! Phật không bao giờ cảm ứng chuyện này đâu. Còn có người cầu tái sanh làm người, làm tiên nhân thì tâm bị chấp vào cảnh giới lục đạo trong sanh-tử luân-hồi để chờ ngày đọa lạc… “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”, tâm ở đâu tương lai sẽ tới đó.
Cha má ơi! Hiểu thấu đạo lý thâm sâu này rồi thì lý do gì mà còn cố đi sai đường nữa? Hãy mau mau ngày đêm niệm Phật, tâm tâm cầu về Tây-phương. Mình sơ ý đã bỏ phí gần hết cuộc đời rồi, mà bây giờ còn đủng đỉnh rung đùi, thì làm sao nộp bài cho kịp trước khi kiểng đánh đây?!…
*) Ba là, thi rớt là vì không chịu buông bỏ những phương thức rườm rà, cứ tiếc rẻ ráng chép đủ thứ vào trong bài, đến lúc kiểng điểm giờ thì bài mình làm chưa xong!
Điều này ví dụ cho những trường hợp tạp tu. Sự tạp tu, không chuyên nhất thường công phu khó có thể thâm hậu. “Nhứt nghệ tinh nhứt thân vinh”. Đạo cũng giống như đời, hễ “Tinh Tấn” thì dễ thành đạt, còn “Tạp Tấn” thì lỡ cỡ khó đi tới đích. Có nhiều người đã hiểu được sự vi diệu của pháp niệm Phật nhưng vì hồi giờ họ đã tu những pháp môn khác quen rồi nên không nỡ xa. Niệm Phật lại vừa niệm Tiên, cầu Thần, xin xăm, bói toán, v.v… Đây chính là vì tập quán đã quen, tình chấp sâu nặng làm quên mất con đường giải thoát, quên mất mục đích chính của sự tu hành. Những cách tạp tu vô tình nó phá mất công năng câu niệm Phật, biến pháp niệm Phật tối thắng vi diệu một đời thành Phật, thành pháp tu cầu phước báu tầm thường. Tu như vậy thì bị mất sự gia trì của 48 lời đại nguyện của Phật A-di-đà. Trong kinh Phật dạy rất rõ là phải “nhất hướng chuyên niệm A-di-đà Phật”. Không nhất hướng thì đi lòng vòng không có mục đích, cuối cùng đành bị trôi theo nghiệp báo luân hồi, đọa lạc vô cùng vô tận?!
Thường tình, người ta cứ nghĩ rằng tu hành đạo nào cũng được, pháp nào cũng học, Phật nào cũng niệm, Thần nào cũng thờ… có như vậy mới chứng tỏ sự bình đẳng tôn kính, không phân biệt. Thực ra, nếu nói tôn kính tất cả thì đúng nhưng thờ phụng, trì niệm tất cả thì bị lạc. Vì sao vậy?
Thứ nhứt là nếu hiểu rõ về cảnh giới thì mới thấy sự mông lung vô định hướng. Trong vũ trụ này, bây giờ vàng thau lẫn lộn, thiện ác khó phân. Phật là Phật, mà Ma cũng xưng là Phật, họ cũng có lắm đồ chúng, lắm pháp môn nghe rất hay, rất dễ cảm mến! Lạc vào đó rồi khó còn sáng suốt để phân biệt trắng đen.
Hai là thọ mạng mình quá ngắn ngủi, bể khổ thì mênh mông, hiểm nạn trùng trùng, không cho phép ta lang thang thám du nhiều cảnh giới trong đời này.
Ba là: Ma, Quỷ, Thần, Tiên… ta cần phải kính trọng họ nhưng không nên theo họ. Nên áp dụng câu “Kính nhi viễn chi”, một lòng kính trọng nhưng cũng một lòng không theo họ làm đệ tử. Con từng thưa với cha má rằng, hễ quen đâu thì nợ đấy, nên quen với Phật theo về với Phật là hay nhất thôi.
Bốn là: pháp môn niệm Phật là Pháp nhị lực, tạp niệm tự mình đánh mất bổn nguyện oai thần gia trì của Phật A-di-đà. Với sức của con người làm sao dám nghĩ tới chuyện tự vượt qua tam-giới luân-hồi, vượt qua bể khổ mênh mông đây?
Cho nên, muốn vượt qua biển khổ hãy tìm chọn chiếc bè nào vững chắc nhứt để đi, đừng nên tham lam đèo bồng, đứng trên một bè còn đề phòng kéo theo thêm năm bảy bè khác. Mới nhìn thì thấy dường như chắc ăn, nhưng kết quả thì chính những chiếc bè kia nó lôi mình trở lại không thể vượt đi được. Dù có ráng sức thì giữa dòng cũng phải ngã quỵ. Chọn lựa một bè thật chắc chắn có nghĩa là suy nghĩ đắn đo thật kỹ là bè nào có thể đưa mình nổi qua tới bờ kia chứ không thể sơ ý được, vì nếu chọn chiếc bè quá yếu đuối nó sẽ nhận chìm mình trở lại trong bể khổ luân-hồi thì uổng đời tu tập.
Cha má ơi! Đời mình, tự mình cứu lấy, không ai cứu mình được cả. Thần Tiên không thể cứu sanh tử khổ nạn cho mình được, Thần Tiên chỉ có thể hỗ trợ phước lộc cho mình hưởng thụ vài chục năm rồi chết, rồi đọa lạc. Cho nên lỡ chọn chiếc bè yếu thì ngay lập tức phải đổi bè, Thần Tiên cao minh không bao giờ ngăn cản chuyện này cả.
Muốn biết bè nào tốt, bè nào yếu thì kiểm tra kỹ là biết ngay. Kinh cũng như thế, xem kinh nào cứu độ mình thành Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác, thành Phật được là chắc. Kinh nào chỉ nói cho chút lợi, giúp chút lộc, cứu chút nạn… không đá động gì đến việc dứt sanh-tử luân-hồi thì yếu, không thể cứu độ rốt ráo. Chắc chắn kinh pháp không thể nói sai, cứ bình tĩnh xem kỹ thì thấy liền. Chọn kỹ rồi cứ một pháp môn mà đi, trong Tịnh-độ tông thường gọi là “Nhất môn thâm nhập, trường kỳ chuyên tu”, có như vậy mới mong ngày thành đạt.
Tình thực mà nói, ta có thể ví chùa chiền, thánh thất, v.v… giống như trường học, thầy tu là giáo viên, pháp môn là những môn học, kinh điển là sách giáo khoa. Tất cả, mỗi mỗi đều có trình độ cấp bực của nó. Tại mình không suy nghiệm kỹ thành ra mập mờ đó thôi. Học hành muốn cầu tiến tới, thì phải chọn môn học thật kỹ chứ không thể vị nể bạn bè. Tu hành thì phải quyết thành đạo, quyết tự cứu chính mình chứ không phải tu để lấy cảm tình với Thánh, Thần, Tiên, Phật… được. Quý Ngài đâu cần sự cảm tình đó. Tại chính vì mình ngại, mình sợ, mình có tình chấp thâm trọng nên không dám tự quyết, chứ Thần minh nào có cấm cản. Đã là Phật, Thánh, Tiên, Hiền thì đâu có thể có tâm lượng ích kỷ hẹp hòi như thường nhân mà tìm cách bắt buộc chúng sanh phải theo mình! Con nói điều này xin cha má suy nghĩ thử đúng hay sai!
Hiểu được đạo lý rồi thì ta thấy rằng pháp môn, tôn giáo chỉ là phương tiện. Trong kinh Phật dạy rằng, “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”. Có nghĩa là, khi liễu ngộ được đạo rồi thì ngay cả pháp Phật cũng phải bỏ đi để đắc đạo huống chi là những pháp không phải của Phật. Tại sao vậy? Vì pháp môn chỉ là phương tiện Phật nói ra để hướng dẫn mình đi, khi thấy được đường đi rồi, thì Phật dạy, phải liệng cái gánh pháp đó để đi cho nhanh, chứ tại sao lại cứ mang hoài trên vai làm chi cho nặng?
“Pháp thượng ưng xả” nghĩa là phải biết buông hết, bỏ hết những thứ râu ria, chỉ còn giữ lại cái gì cần thiết nhất giúp mình đi được mà thôi. Ngài Thiện-Đạo Đại sư đời nhà Đường nói, “Như Lai sở dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di-Đà bổn nguyện hải”, nghĩa là sở dĩ chư Phật thị hiện xuống trần thế là chỉ vì để nói cho chúng sanh biết cái nguyện hải độ sanh của Phật A-di-đà mà thôi. Tất cả vạn pháp chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh quy nạp về thế giới Cực-lạc, đó là câu “Nam-mô A-di-đà Phật”, cái đỉnh cao nhất, tối hậu để viên thành Phật Đạo. Nay ta đã tới cái đỉnh này rồi tại sao lại muốn tuột xuống? Chư Tổ sư đều nói, bốn mươi chín năm thuyết kinh giảng đạo của Phật sau cùng cũng chỉ là để giới thiệu cho chúng sanh câu Nam-mô A-di-đà Phật để vãng sanh Tây-phương thành Phật. Giờ đây biết rồi thì mình phải thành Phật chứ, tại sao lại tìm cách đi ngược về đường đọa lạc?!
“Pháp thượng ưng xả” là để vãng sanh Tây-phương thành Phật, phải thực hiện cho được trong đời này. Siêu sanh Tây-phương Cực-lạc là đang còn sống đây ta niệm Phật để về tới Tây-phương thành Phật, chứ không phải chờ đến lúc chết, rồi bảo con cháu chạy mời mấy vị Sư đem tấm hình A-di-đà Phật tới tụng kinh cầu siêu đâu… Thực tế, cầu siêu cho người chết thì ít, mà chính yếu là cầu cho người sống hãy mau mau tỉnh ngộ tu hành, đừng đợi chết rồi thì đã quá muộn đó thôi!
Tất cả pháp môn đều là phương tiện, nhưng niệm Phật có cả cứu cánh luôn, vì “Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”, nhân và quả đều ở ngay trong câu Phật hiệu. “Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh chứ đâu phải là chuyện tầm thường.
Trong nhà Phật thường có câu, “Qua sông liệng bè”. Phật giáo Đại Thừa còn nói mạnh hơn nữa, giữa giòng nếu cần cũng liệng bè luôn. Ai tin được không? Có. Ví dụ, một chiếc bè dập dìm giữa sóng gió trùng dương, gặp một chiếc thuyền cứu nạn mà không nhanh chóng lên thuyền để nó chở qua “bờ kia” còn đợi gì nữa?! Pháp tu Niệm Phật cầu sanh Tịnhđộ là vậy đó. Mình tu một nửa, còn nửa kia hãy đưa tay cho Phật cứu. Chính sự cứu độ này đã giúp cho vô số chúng sanh vượt thẳng tới Tây-phương viên thành Phật đạo chỉ vỏn vẹn trong một vài năm thành tâm niệm Phật. Với chiếc thuyền của Phật A-di-đà Ngài cứu độ vô tận vô biên chúng sanh, một vài người lẻ tẻ như chúng ta đâu thấm thía gì đâu mà lo với ngại. Nếu điều này không một ai tin, con vẫn xin khuyên cha má hãy quyết lòng tin tưởng, chắc chắn như vậy. Con đã hiểu, đã thấy, con đang dẫn đường cho cha má leo lên con thuyền đó để được cứu, con không dám nói một lời vọng ngữ đâu. Thời gian qua con đã chứng minh cho cha má quá cụ thể, quá đầy đủ rồi, làm sao còn mập mờ gì nữa? Thời mạt pháp này, nói thực nếu không có sự cứu độ của Phật A-di-đà làm sao có một ai có thể mơ mộng vượt khỏi tam kỳ, siêu việt qua tam giới. Ai dám vỗ ngực tự thoát khỏi sanh-tử luân-hồi đây, thưa cha má!…
*) Bốn là: làm bài sai đề. Chắc chắn phải rớt!
Đây là ví dụ cho người tu sai đường, càng tu càng lạc. Nếu không kịp thời tỉnh ngộ quay lại đến một lúc nào đó, nếu không may mắn được người chỉ điểm, thì có muốn quay lại cũng không biết đâu mà quay. Cái khổ não bi thương nhất của chúng sanh thời mạt pháp là chỗ này. Họ không muốn đi lạc, mà vì cạm bẫy trùng trùng bẫy họ vào hiểm lộ. Trong kinh Phật dạy rằng, đời mạt pháp Phật pháp đã đi dần đến chỗ diệt pháp, ngoại đạo tà phái đang càng ngày càng nhiễu loạn. Từ đây đến chín ngàn năm nữa thì Phật giáo bị diệt là chính vì sự khuấy nhiễu này. Phật dạy chúng đệ tử rằng thời “Mạt pháp Tịnh-độ thành tựu”, chúng sanh hãy mau quay về với pháp môn niệm Phật. Tất cả những pháp môn tự lực khó có thể thoát khỏi cạm bẫy của ngoại đạo. Chỉ có pháp môn niệm Phật được Phật A-di-đà gia trì, chư Phật mười phường cùng hộ niệm, người chí thành niệm Phật sẽ có hai mươi lăm vị Bồ-tát hộ pháp, chính vì thế mới bảo vệ được người niệm Phật an toàn vãng sanh Cực-lạc quốc. Tu pháp của Phật mà Phật còn dặn như vậy, huống chi những pháp tu không xuất phát từ Phật?
Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật nói: “Đương lai chi thế kinh đạo diệt tận, Ngã dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện giai khả đắc độ”. (Nghĩa là, tương lai thế giới này kinh điển của Phật bị diệt hết, Ta vì lòng từ bi ai mẫn, đặc biệt lưu bộ kinh này thêm một trăm năm nữa. Nếu có chúng sanh thọ trì kinh này thì tùy theo sở nguyện đều được cứu độ). Bộ Kinh Vô-Lượng-Thọ dạy chúng sanh niệm A-di-đà Phật cầu sanh Tịnh-độ. Nghĩa là, khi tất cả pháp Phật bị diệt hết, thì Phật lưu âm hiệu “A-di-đà Phật” lại thêm một trăm năm nữa để độ chúng sanh cuối cùng có duyên với Phật về Tây-phương trước khi Phật pháp diệt tận. Cho nên, câu Phật hiệu uy lực công đức lớn vô biên, thời mạt pháp này ngoài câu Phật hiệu ra, khó có pháp môn nào bảo đảm cho mình thoát hiểm nữa cả. Đây là kinh của Phật nói rõ ràng, xin cha má quyết không thể hồ nghi được.
Cái khổ trong thời mạt tận là hoàn cảnh nhân sinh càng ngày càng hỗn loạn, không biết đâu là chánh, là tà, người thành tâm muốn tu giải thoát lại tu theo tà. Thật đau đớn! Ngài Tịnh-Không vạch ra mấy điểm cụ thể để chúng ta tự cảnh giác hầu phân biệt chánh tà.
- Là Phật, Bồ-tát không bao giờ dùng thần thông để thâu nạp tín đồ. (Tất cả những loại phép lạ, cơ, bút, bùa ngải, thông linh… đều là những dạng thần thông);
- Là Phật, Bồ-tát xuất thế không bao giờ thố lộ danh tánh. (Ai tự xưng danh tánh, nhứt định phải “kính nhi viễn chi”);
- Là lỡ bị lộ danh các Ngài tịch liền. (Người được vinh danh là Thần, Thánh, Tiên, Phật… đủ thứ mà không đi thì phải cẩn thận).
Cha má nên nhớ ở đâu cũng có nêu ra cái chân lý hành đạo riêng nghe hay lắm, nhưng mục đích chính bên trong thì khó lường được!…
*) Năm Là: hỏi rằng, những người không biết gì hết muốn đi thi có thể đậu được không? Trả lời: không thi thì không đậu, nhưng nếu thi nhiều lúc lại đậu rất cao!
Đây là ví dụ cho nhiều người không hiểu đạo, mù tịt tu có được không? Liệu có thành tựu không? Có vãng sanh được không? Phần thư này con xin viết riêng cho má, cho bà Bác mẹ của anh Hai, cho cô Bốn, cho những ông bà cụ đã lụm cụm hồi giờ không hiểu biết gì về đạo pháp cả, tự họ không biết một cách nào để giải bài toán sanh tử, nhưng có thể được thi đậu và nhiều khi còn đậu cao nữa là khác. Nhờ đâu vậy? Thưa cha thưa má, “Cốp-Pi”. Họ biết mình dở rồi, nhưng họ có lòng thành thực mong cầu chỉ điểm, xin mượn bài để chép, khỏi cần ý kiến. Có sao “chép lại” vậy, nhanh tay chép nhanh nhanh để nộp bài cho kịp giờ. Họ đậu và nhiều khi đậu rất cao. Quan trường thi cử xưa nay, hạng người may mắn này không thiếu. Cái mục đích của họ là làm sao đậu trước đã, giải thoát trước đã, thoát ly sanh tử trước cái đã. Sau đó muốn hiểu, muốn biết còn thiếu gì thời gian cho mình thực hiện.
Trên thực tế, người vãng sanh theo diện này rất nhiều, và cách vãng sanh của họ chứng tỏ phẩm vị rất cao, nhiều khi còn cao hơn nhiều vị tu hành nhiều năm nữa là khác. Ví dụ, bà cụ Triệu-Vinh-Phương là một chứng minh cụ thể, chín mươi tuổi mới bắt đầu niệm Phật, không biết một chút Phật pháp nào cả, chín mươi bốn tuổi an nhiên vãng sanh trong ánh quang minh của Phật vào năm 1999, (xem lại cuộn phim). Cụ Trần-Quang-Việt, tám mươi hai tuổi mới bắt đầu tu, tám mươi sáu tuổi vãng sanh tại Singapore năm 2001. Cụ ChâuQuảng-Đại, niệm Phật ba ngày vãng sanh. Còn nhiều lắm, rất nhiều người già cả đến ngày gần chết được may mắn có người chỉ điểm niệm Phật, họ thành tâm tin tưởng, nhứt tâm xưng niệm A-di-đà Phật, một lòng cầu về Tây-phương, họ thành tựu ngay trước mắt, trước sự ngỡ ngàng của những vị tài cao hiểu rộng!
Thưa má, xin má đọc thật kỹ đoạn thư này thì tự nhiên má cảm thấy vô cùng hoan hỉ, vô cùng sung sướng và bắt đầu từ đây má có thể hưởng được một sự an vui tự tại cho đến ngày vãng sanh bất thối thành Phật. Dựa đúng theo kinh Phật chỉ bày, nếu má một lòng tin tưởng, tuyệt đối làm đúng như con chỉ, tuyệt đối không ý kiến, tuyệt đối không thay đổi, tuyệt đối không cần tìm hiểu gì cả. Con dám bảo đảm chẳng bao lâu má sẽ tự biết được ngày ra đi, an nhiên hẹn ngày ra đi, đi trong vui vẻ thoải mái, đi theo Phật vãng sanh rõ ràng giống như cụ Triệu-Vinh-Phương vậy. Nghĩa là, má không còn chết nữa, ngày đi tự má chủ động liệng cái thân già còm khổ cực yếu đuối lại cho con cháu muốn chôn thì chôn, muốn thiêu thì thiêu, còn mình thì nương theo ánh quang minh của Phật về Tây-phương thành Phật. Ngay tích tắc, má sẽ hiểu cái chân tướng của vũ trụ nhân sinh này. Thoát ra khỏi sanh-tử luân-hồi rồi, nhìn lại mới thấy tấn tuồng ở nhân gian này chỉ là một giấc mộng mà hồi giờ mình không hay! Tất cả những bà cụ, ông cụ nào trên thế gian này, nếu phát lòng tin, vững mạnh niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ sẽ hưởng được cái đại phước vãng sanh quí báu này.
Con xin nhắc lại điểm chính yếu để tu:
Một là: tin tưởng vững chắc pháp môn niệm Phật, tin tưởng vững chắc Phật A-di-đà cứu độ, tin tưởng vững chắc mình được vãng sanh về Tây-phương, tuyệt đối không còn suy nghĩ gì cả.
Hai là: sám hối tội lỗi và nguyện vãng sanh. Nghĩa là sáng chiều quỳ trước bàn thờ Phật A-di-đà thành tâm sám hối những tội lỗi từ vô lượng kiếp tới nay, nguyện quyết tâm niệm Phật và mỗi ngày đều hồi hướng công đức cho oan gia, trái chủ. Xong rồi thì phát nguyện vãng sanh, hãy viết câu phát nguyện rõ ràng ngắn gọn và ngày nào cũng đọc như vậy. Sau mỗi lần niệm Phật, hoặc chiều tối hồi hướng công đức về Tây-phương. (Xem lời hồi hướng trong các thư trước. Tuyệt đối, ngoài cầu vãng sanh không được cầu bất cứ điều gì lợi ích cho chính mình cả).
Ba là: ngày đêm sáng trưa chiều tối, đi đứng nằm ngồi, thái rau, bửa củi… lúc nào cũng niệm A-di-đà Phật. Tuyệt đối ngoài niệm câu Phật hiệu, không được niệm một tiếng gì khác nữa cả.
Nếu bị con cái bắt giữ cháu thì ru cháu, đưa cháu, dỗ cháu bằng câu A-di-đà Phật. Đi ra đường mỗi bước chân một câu A-di-đà Phật. Hãy cầm trong tay xâu chuỗi, lúc nào cũng phải lần một hột là một câu A-di-đà Phật. Cắt giảm tất cả chuyện thăm nom bà con, miễn chuyện thị phi nhân nghĩa, miễn bàn luận hơn thua với bất cứ ai. Gặp hai người đang nói chuyện nhất định không tham gia vào thành người thứ ba, nhứt định không chịu đi chung với họ trên một đoạn đường dài để tránh nói chuyện, nếu kẹt quá không thể tránh được thì tìm cách lách ra hoặc đi ngược chiều lại, nghĩa là chỉ gặp nhau chào rồi đi luôn. Muốn vãng sanh là phải như vậy, không được bỏ phí một giây phút nào không niệm Phật cả. Ai nói gì nói, ai chê gì chê, vài ba năm nữa lây lất ở trần thế này có nghĩa gì đâu mà tham luyến.
Hãy nghe lời con đi má, hãy nghe lời con đi cha. Hãy nhắn lời cho cô Bốn, bác gái mẹ anh Hai, tất cả bà con cô bác xa gần hãy nghe lời con, niệm Phật liền đi. Vững mạnh mà đi tự nhiên thấy câu trả lời. Hãy quyết tâm thực hiện đường về Tây-phương. Đừng chần chờ nữa, thời gian không cho phép lề mề đâu. Lỡ một bước rồi ân hận ngàn đời vạn kiếp đó.
Đường về Tây-phương để một đời này thôi viên thành Phật đạo là câu Phật hiệu Nammô A-di-đà Phật chứ không phải cái gì khác cả. Tất cả các vị pháp sư suốt cuộc đời nghiên cứu kinh điển, khổ công khổ sức truy tầm con đường giải thoát từ trong rừng kinh biển sách, rốt cuộc cái bí quyết để thành công, một bí tủy của Phật pháp để thành Phật không gì khác hơn là danh hiệu Nam-mô A-di-đà Phật. Ngộ được lý đạo, quý Ngài mau mau buông bỏ tất cả mà niệm Phật, thì tại sao bây giờ có người lại cứ chạy theo con đường tu tập khổ cực của các Ngài mà không chịu nghe lời khuyên chân thành của người đắc đạo?
Bồ-tát Đại-Thế-Chí, người đứng bên phải của Phật A-di-đà dạy, “Thâu nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục”, cứ thế mà làm thì thành Phật. Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, đóng hết lại để niệm Phật. Đừng nghe, đừng nhìn, đừng nói, đừng học, đừng hiểu, đừng biết… gì cả, cứ một lòng tin tưởng niệm Phật là thành đạt. Cho nên chính má, cô Bốn, bác gái mẹ anh Hai, tất cả những người già cả quê mùa… là những người hồi giờ không rành kinh điển, không hiểu giáo nghĩa, không biết triết lý gì hết mới chính là cơ duyên tốt nhứt để thành đạo.
Đừng nên mong cầu hiểu đạo, đừng nên cầu mong rõ lý, đừng nên chạy lung tung làm cho tâm mình dao động. Nhất thiết một lòng niệm Phật dù cho có Sư, có Thầy nào đức cao tài giỏi tới chỉ điểm gì khác cũng đừng thay đổi.
Niệm Phật và chỉ niệm Phật thôi mới mong giải thoát cha má ạ.
Nam-mô A-di-đà Phật. Kính thư.
(Viết xong, Úc Châu ngày 22/4/2002).
Đừng nên vì những thứ ở ngoài thân mà lãng phí quãng đời trân quí của mình. Phải mau sớm tu hành! (Hòa-Thượng Quãng-Khâm) |