KHUYÊN NGƯỜI NIỆM PHẬT
Tác Giả: Cư sĩ Diệu Âm
Phật lịch năm 2547 / Dương lịch năm 2003
Niệm Phật: Con Đường Cứu Mẹ
Em Vân,
Anh Năm vừa thực hiện một chuyến ngao du xa hơn một nửa quả địa cầu mới về. Anh đi ngay trong thời điểm mà tụi khủng bố cướp 4 chiếc máy bay tấn công nước Mỹ. Ngày 11/9/01 hai chiếc máy bay tông vào hai tòa nhà cao nhất thế giới (trung tâm mậu dịch thế giới) ở New York thì anh Năm đang ở bên đó, chỉ mới vừa rời Mỹ đi qua Toronto ở Canada, một nước sát cạnh Mỹ, có thể lái xe qua lại được. Khi vừa tới nhà thì anh Năm nhận được thư em. Đầu thư cho anh gởi lời thăm Thành, và chúc toàn gia đình em an khương, hạnh phúc.
Vân, đọc thư em mà anh Năm vui buồn lẫn lộn(!). Vui vì nhìn lại được nét bút của em vẫn như xưa, vẫn như ngày mình còn trẻ, em là đứa em dễ thương và có lẽ thương anh Năm nhiều nhất. Buồn vì nay lại hay tin cô Bốn bị bệnh đang nằm trong bệnh viện. Cô bệnh mà còn nhớ tới anh Năm và nhắn em nhờ anh Năm đọc kinh “Thủy Sám” cho cô. Anh Năm đã để tên cầu an cho cô trong Niệm Phật Đường rồi, cầu cho cô sớm giải nạn. Ôi! Đời thật là vô thường, thật là huyễn hóa, phải không em?!…
Vân, anh có xuất gia hồi nào đâu mà hỏi ở chùa hay ở nhà? Xuất gia thì tốt, nhưng điều quan trọng hơn là lập chí tu hành, xây dựng đạo hạnh, tu bồi công đức mới là chính. Đời mạt pháp này phải cẩn thận, đừng thấy cái hình thức bên ngoài mà lầm cái thực chất bên trong. Anh bây giờ an cư, thanh đạm, sống rất tùy duyên, dành nhiều thì giờ để niệm Phật hơn là lo lắng về chuyện con cái, nợ nần, nghĩa nhơn. Anh quyết tâm buông xả để lo đường thoát nạn.
Em Vân, anh biết em đang bận rộn nhiều lắm, nào là con cái, nào là buôn bán kiếm tiền, cho nên khó có thì giờ lo những chuyện khác?… Trong suốt thời gian qua anh không viết thư về thăm cô vì chính anh ở đây cũng bận lắm, quanh năm quần quật với miếng ăn toát mồ hôi, thành ra không còn có giờ viết thư nữa! Đến sau này, mới đây thôi, tự nhiên anh hiểu được Phật pháp, anh thấy được con đường giải thoát quý báu. Từ đó anh đổ hết tâm trí vào việc tu hành, anh tập buông xả nhiều hơn nữa để học Phật. Anh muốn trong dòng họ mình ai ai cũng học Phật cả, chính vì thế cho nên hễ cứ viết thư cho ai là anh đều xoay quanh vấn đề này, vô tình mỗi lá thư của anh bỗng nhiên đều trở thành thư khuyến tu, mà khuyến tu thì đối tượng không thể bừa bãi được. Ấy thế, nhiều lúc anh muốn viết thư cho em, cho cô, cho chú Chín, cô Mười… cho tất cả anh chị em, bà con chú bác trong gia đình mà không viết được. Vì sao em biết không? Vì không khéo anh sẽ trở thành người thày lay, chưa chi mà đi dạy đời, thì bị chửi chết. Nhưng một khi tâm anh đã hướng về Phật rồi thì cứ mở một lời là cái lưỡi nó hướng về Phật. Ráng kiềm chế lắm thì cũng chỉ tránh được một câu, đến câu thứ hai nó cũng xen vào việc khuyên tu hành giải thoát. Muốn né mà né không được!
Cái miệng là phương tiện truyền thanh của cái tâm. Trong đời sống bình thường, nghe ai nói chuyện vài câu ta có thể biết được người đó thuộc hạng nào trong xã hội, hễ người thích đấu tranh chém giết thì họ chỉ thích nói việc chiến tranh, dao búa; người thích tiền bạc thì mở lời là họ bàn chuyện buôn bán, làm ăn; người thích thơ phú thì có cấm họ cũng xổ vài câu mây gió trăng sao. Tâm anh đã hướng Phật thì cũng vậy, nói một vài câu là anh lại muốn người ta niệm Phật. Vấn đề này đôi lúc khá rắc rối, vì lỡ nói với người theo tôn giáo khác thì sao? Với người không tin Phật thì sao? Không khéo họ bôi bác Phật giáo thì vô tình anh đem cái họa đến cho họ! Thành ra, anh đành ngậm câm cho chắc ăn! Chính vì vậy, hễ ai viết thư hỏi thì anh mới dám nói, còn không anh đâu dám tự ý viết thư khuyên gì được.
Phật dạy rằng: “nhất thiết duy tâm tạo”. Cái cảnh giới mình đang sống hoàn toàn do tâm mình hiện ra: tốt xấu, thiện ác, lành dữ, phải trái… đều do chính tâm mình tạo nên (gọi là nghiệp nhân), để rồi chính mình thọ hưởng lấy (gọi là quả báo). Nhân duyên quả báo tơ hào không sai. Lúc mình tạo nhân thì tha hồ thoải mái, đến lúc thọ hưởng quả báo thì tha hồ khóc than! Khởi tâm động niệm đều có thể tạo nhân, nẩy ra một ý ghét thương cũng đã kết thành nghiệp chướng. Trong bao nhiêu đời kiếp rồi, thử hỏi cái khối nghiệp chướng này tả sao cho nổi! Khi hiểu được đạo Phật, anh mới sợ cái nhân. Thấy con người cứ lăn xả vào việc tạo nghiệp, anh thấy thật tội nghiệp cho họ! Thế nhưng có đồng thanh mới tương ứng, có đồng khí mới tương cầu. Không đồng nhịp cầu thanh khí thì khó tương thông. Cho nên nhiều lúc muốn giúp người mà giúp không được. Thiếu thiện căn phước đức rất khó tu hành. Thiếu nhưng quyết tâm tu thì bồi bổ phước đức thiện căn không khó. Cái khó là tại không tu thôi.
Trong tâm, anh tha thiết được viết một bức thư tới em để khuyên một vài lời cho em làm tròn đạo hiếu với cô và cũng chính cho em nữa. Nhưng duyên chưa tới thì anh chỉ đành chờ. Có lần Huy Hồng, con cô Sáu, ghé nhà anh, tình cờ đọc được một lá thư anh viết cho cậu mợ, Hồng bỗng nhiên hiểu được con đường giải thoát. Em nó viết thư cho anh, lời thư rất cảm động và tha thiết. Sau đó cứ mỗi lần có thư anh, Hồng sao ra nhiều bản gởi đi khắp nơi, nhiều lần nó đọc thư anh qua điện thoại cho cô Sáu nghe. Tâm của Hồng rất là tốt, em nó quyết tâm muốn cứu độ người mẹ mà không biết làm sao. Khi gặp thư của anh viết, nó chộp lấy ngay cơ hội đó làm lời khuyên tu. Anh thường khuyên Hồng “cố gắng giúp dì Bốn, cậu Chín, dì Mười với nghen”, nghĩa là anh điềm chỉ cho Hồng gởi đại những lá thư anh viết tới để làm cái cầu kết duyên tu hành. Hãy thành tâm cứu người, cứu được người nào hay người đó, còn được hay không hãy tùy thuận theo căn lành phúc đức của họ. Hôm nay, em đã viết thư cho anh thì cái duyên đã có. Anh sẽ cố gắng hết sức giúp em trong tất cả khả năng. Cứu được cô như cứu chính người mẹ của anh vậy. Trong thời thơ ấu, chính cô đã thương yêu, nuôi dạy anh từng cái khăn đến chiếc áo, từ ống kem đánh răng cho đến đôi giày… làm sao anh quên cho được.
Anh nghĩ cứu cô dễ dàng chứ không khó đâu. Có điều khó là em có nghe theo không? Cô có nghe theo không? Chứ cứ việc chạy cà rông, đụng đâu nghe đó thì đành chịu thua.
Hãy nghe cho kỹ nghen, đừng đọc phớt qua mà hiểu lầm ý anh thì tiếc lắm đó. Anh giúp một người, dù bất cứ trường hợp nào, đang trẻ trung lành mạnh, đang yếu đuối trong cơn bệnh hoạn, khẩn cấp như sắp lâm chung… cũng giống nhau thôi, luôn luôn anh chỉ khuyên võn vẹn có ba lời. Sau ba lời khuyên nếu được chấp nhận thì còn duyên, nếu không chấp nhận thì coi như đây chỉ là lần kết duyên cho vô lượng kiếp sau này của họ mà thôi. Ba lời khuyên đó là:
–Một là phải tin Phật, lòng tin vững như tường đồng vách sắt vào uy đức của Phật, chỉ có Phật mới có đủ khả năng cứu độ mình. Không những chỉ cứu khổ cứu nạn mà còn có khả năng cứu độ mình thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, vượt qua khỏi tam giới, vĩnh biệt sinh tử, sanh về với cõi Phật trong một đời này mà thôi. Nói gọn lại đây là lòng Thành Tín Phật, Chơn Tín Phật, Thâm Tín Phật… Cái “Tín Tâm” này là đầu mối tối quan trọng để được cứu độ. Không có tín tâm thì đành chịu thua, không cứu được.
–Hai là phải biết buông xả. Buông bỏ cái thân tâm, nhân tình, thế giới, này đi, đừng luyến tiếc nó nữa. Tất cả chỉ là mộng huyễn chứ không có gì thực đâu, và một lòng nhứt tâm khẩn thiết “Nguyện”sanh về cõi Tây-phương Cực-lạc của Phật A-di-đà khi mãn báo thân này. Tây-phương Cực-lạc Thế Giới là một thế giới có thực, một cảnh giới vô cùng thù thắng trang nghiêm, an vui Cực-lạc. Kinh Vô Lượng Thọ nói rất rõ. Một người muốn được giải thoát khỏi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, muốn thoát khỏi được kiếp người đau khổ, muốn thắng được nghiệp chướng, quả báo, muốn trả được nợ oan gia trái chủ nhiều đời nhiều kiếp… thì phải chí thành chí thiết “Nguyện” vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc.
–Ba là thành tâm niệm Nam-mô A-di-đà Phật, đó gọi là “Hạnh” của sự tu hành. Từ sáng tới chiều, từ chiều tới sáng luôn luôn niệm câu Phật hiệu. Lúc trang nghiêm niệm ra thành tiếng, lúc không trang nghiêm thì niệm thầm trong tâm. Niệm Nam-mô A-di-đà Phật ở bất kỳ chỗ nào, bất kỳ trường hợp nào. Đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, nói nín, thái rau, bửa củi, buôn bán, tính toán… đều có thể niệm được Phật hiệu. Thậm chí Tổ-sư Ấn Quang còn cho phép rằng, ngay lúc đang đi cầu vẫn thầm niệm Phật trong tâm để tránh sự gián đoạn. Lỡ có quên, hễ nhớ thì ngay tức khắc niệm liền. Cứ thế mà tu thì chắc chắn trong đời này được vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc với Phật A-di-đà, vĩnh viễn thoát ly khổ nạn, đoạn tuyệt tam giới vô an, ra khỏi lục đạo luân hồi tiến đến Vô sanh Pháp nhẫn.
Người nào phát tâm Tín-Nguyện-Hạnh dũng mãnh, kiên định lập trường bất thối, cứ một đường như thế đi tới thì chắc chắn một đời này thôi sẽ được mãn nguyện. Đây là lời khai thị khẳng định của chư vị Tổ-sư Tịnh-độ tông. Bây giờ bắt đầu tu còn kịp không? Dư sức kịp. Tu bao lâu mới thành? Nếu nhứt tâm niệm Phật từ một ngày đến bảy ngày thì thành tựu, (xem kinh “Phật thuyết A-di-đà”). Thậm chí niệm Phật 10 câu trước lúc lâm chung cũng được vãng sanh (Nguyện 18, kinh Vô Lượng Thọ). Có bằng chứng không? Có, không những có mà còn có nhiều lắm. Ví dụ cụ thể nhứt mới vài năm về trước ông Châu Quảng Đại tại Washington DC, một người chưa từng tu Phật nhưng cơ may đến ông niệm A-di-đà Phật ba ngày thôi được vãng sanh về Tây-phương, ông đã trút được gánh nặng của bệnh ung thư tàn tệ đang nằm chờ chết.
Vân, đọc tới dòng thư này em đã xác định rõ lời khuyên của anh chưa? Em có còn mập mờ gì nữa không? Về quê em đã đọc được mấy lá thư của anh? Em đọc kỹ không? Nếu đã đọc kỹ thì làm gì có chuyện bảo anh đọc kinh “Thủy-Sám” để cứu cô. Anh có bao giờ nhắc nhở đến kinh đó đâu? Một ngàn lần, một vạn lần anh Năm lạy lục năn nỉ cậu mợ Hai là phát tâm niệm Nam-mô A-di-đà Phật để được cứu độ thoát khỏi sinh tử luân hồi. Chỉ cần có lòng TÍN tâm vững mạnh, chí thành NGUYỆN vãng sanh Tây-phương Cực-lạc là được vãng sanh.
Đây là lời khẳng định của Đại sư Ngẫu Ích, của tất cả 13 Vị Tổ-sư Tịnh-độ Trung-Hoa đều khuyên như vậy. Vị đại sư Sơ Tổ Tịnh-độ tông của Việt Nam, người viết cuốn Niệm Phật Thập Yếùu cũng xác định như vậy. Có Tín có Nguyện vãng sanh rồi thì ngày đêm trì giữ câu Phật hiệu để tiêu nghiệp chướng, để biến tâm mình thành tâm Phật, để đắc vãng sanh về phẩm vị cao ở thế giới Cực-lạc. Một pháp môn tối ư vi diệu, tối thắng chí thượng trong đạo Phật, cực kỳ linh nghiệm mà anh đã viết về cậu mợ Hai nói rõ từng chút, giải thích cạn lời, từng chữ từng câu, ước chừng muốn nhuộm cả máu trong tim của anh, với một mục đích duy nhất là để cho cha má anh được thoát nạn trong đời này. Ấy thế, đến khi em đọc lại hiểu lầm, một sự lầm lẫn khá xa!…
Nhắc lại, anh khuyên niệm Phật và chỉ có niệm Phật mới cứu được một người trong thời mạt pháp này, em không biết sự tối thắng của câu Phật hiệu lại còn bảo anh tụng “Thủy-Sám” để cứu cô? Anh có biết kinh Thủy-Sám đâu mà tụng. Trong đời nhà Đường có một vị Thiền sư, tu hành luôn mười đời, đều làm cao tăng, đến đời thứ 10 thì trở thành quốc sư Ngộ Đạt. Nhà Sư được vua tặng một chiếc ghế trầm hương rất quý và nhà vua quỳ mọp dưới chân đảnh lễ quốc sư. Ngài nổi lòng kiêu ngạo, dương dương tự đắc, tự thấy mình cao quý hơn vua thần Hộ Pháp của Ngài bỏ đi, Ngài bị một oan gia đã theo suốt trong mười đời nhập vào thân biến thành cái mụt có hình mặt người để hại Ngài.
Từ Bi Thủy-Sám Pháp là phương pháp giải nghiệp cho Ngài Ngộ Đạt quốc sư. Như vậy, Thủy-Sám xuất hiện từ thời Nhà Đường bên Trung Quốc, có thể có lưu dụng trong các chùa làm pháp giải nạn, chứ đó đâu phải là kinh của Phật. (Phải biết phân biệt là kinh của chính Phật thuyết đều phải bắt đầu bằng bốn chữ “Như Thị Ngã Văn”, những kinh không có bốn chữ này thì không phải của Phật). Cũng như pháp Lương Hoàng Sám là do vua Lương Võ Đế lập đàn giải nạn cho vợ ông ta, rồi sau này người ta áp dụng phương pháp đó để cầu giải nạn vậy. Còn bây giờ một mình anh Năm, một cô Ba, một đứa con suốt ngày bận bịu như em, tụng khơi khơi, lấy lệ, thì công đức tìm đâu ra mà hòng giải nghiệp cho mẹ!? Mà giả như giải được một nghiệp nào đó trước mắt, thì còn hàng vạn nghiệp khác ai giải cho đây? Như vậy tụng “Từ Bi Thủy Sám” thì cũng tốt chứ không sao cảù, nhưng phải có công đức thật lớn thì mới giải được cái nạn trong nhứt thời, chứ làm sao giải được cái nạn kết tụ trong vô lượng kiếp, làm sao giải cái nạn sanh tử đây?
Em Vân, tu hành đừng nên mập mờ vô định hướng. Tu chỉ biết “Tu” chứ không biết tương lai sẽ đi về đâu thì uổng công lắm đó. Thấy kinh nào cũng nhào vô tụng, thấy pháp nào cũng muốn nhào vô hành mà quên rằng kinh đó, pháp đó đang nói gì, dẫn ta tới đâu, cứu độ cho ai… thành thử cứ chạy lòng vòng suốt đời, rốt cuộc cũng không đi tới đâu hết. Pháp môn của Phật có vô lượng vô biên, mỗi pháp là món thần dược trị một tâm bệnh. Học Phật mà không hiểu biết về Pháp môn có khác gì người vào tiệm thuốc chộp đâu uống đó. Nhiều lúc không ích lợi mà coi chừng còn bỏ mạng, bị loạn tâm. Ấy không phải là tại pháp Phật sai mà tại mình đi trật đường. HT Tịnh Không thường nhắc đến Ngài Ngộ Đạt để thức tỉnh tứ chúng đệ tử tránh con đường đó, thì sao có người lại nhào vô tu để cầu giải nghiệp cho kiếp hữu lậu này. Nếu như Ngài Ngộ Đạt một lòng nghe theo lời Phật dạy, xác định rõ hướng đi, nhất hướng chuyên niệm A-di-đà Phật, nguyện vãng sanh Tây-phương thì ngay một đời Ngài có thể đã về Tây-phương với Phật thành bậc Bồ-tát rồi, có đâu phải lăn lộn tới mười đời, để sau cùng bị gặp nạn cơ hồ táng mạng. Nếu muốn độ sanh thì với năng lực của một vị Bồ-tát bất thối ở cõi Tây-phương, thần thông bao trùm vũ trụ pháp giới, họ quán xét rõ ràng nghiệp báo chúng sanh, họ thừa nguyện tái lai để cứu độ thì công đức nhiều gấp ngàn vạn lần hơn một phàm tăng dưới thế.
Chính vì thế, người muốn thành đại nguyện cứu độ chúng sanh thì phải niệm Phật cầu về Tây-phương trước rồi mọi chuyện khác sẽ tính sau. Sanh tử là chuyện trọng đại, luân hồi là điều đáng sợ. Qua một cuộc cách ấm là công phu bị xoá sạch, hiểm nạn trùng trùng, làm sao ta dám bừa bãi? Độ người mà “Tánh” mình chưa kiến, “Tâm” mình chưa định, “Trí” mình chưa thông tuệ… thì có thể dẫn chúng sanh đi sai đường và làm khổ người khác phải đến cầu đám cho mình chứ được gì đâu! Đúng không em?
Tất cả kinh điển đại thừa Phật đều dạy chúng sanh phải phát nguyện sanh về Tâyphương thì mới thoát nạn. Phật không dạy nguyện trở lại làm người, làm nhà sư, làm hiền nhân quân tử. Vì nguyện trở lại là tự mình trói mình trong luân hồi sanh tử, nhất là đời mạt pháp này khó bề thoát khỏi ma chướng. Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, Đức phật dạy, “Nếu có chúng sanh nào chí thành xưng niệm Nam-mô A-di-đà Phật, thì uy lực bất khả tư nghị của danh hiệu khiến cho thân tâm thanh tịnh mà chúng sanh ấy không hề hay biết, tự nhiên chứng nhập Sơ phần Pháp Thân, âm thầm ứng hợp với BI TRÍ trang nghiêm của Phật…” (niệm phật Ba La Mật/phẩm 2). Pháp thân là Phật, niệm Phật thì thân tâm tự thanh tịnh, Phật tâm tự khai mở, đây là pháp lấy thẳng quả địa Phật để tu thành Phật. Trong chuyến đi “ngao du” các nước vừa qua, thăm anh em bạn bè thì ít, mà hầu hết anh Năm đến các chùa ở Mỹ, Pháp, Canada để thăm quý Tăng-Ni. Anh đem theo một cuộn video quay lại sự việc cụ Triệu Vinh Phương, 94 tuổi vãng sanh năm 1999 tại Trung Quốc. Quý Sư Ni, Thượng-tọa, Đại-đức nhìn thấy đều giựt mình kinh ngạc. Chính cả những vị HT coi xong cũng đành tán thán.
Năm 1994, cụ 89 tuổi mới bắt đầu quy y ăn chay niệm Phật. Năm 1998 hai lần thấy Phật hiện ra trên không trung giữa ánh quang minh rực rỡ. Năm 1999 cụ tỉnh táo niệm Phật đến hơi thở cuối cùng rồi vãng sanh trong tư thế kiết tường. Trong ngày vãng sanh, bốn lần Phật A-di-đà xuất hiện, mỗi lần Phật xuất hiện ánh quang minh sáng rực khắp nhà giữa đêm khuya, hương thơm xông ra ngát cả trong ngoài. Khi hỏa táng nhục thân, có đạo hào quang ngũ sắc bay lên không trung. Cụ để lại nhiều xá lợi, đặc biệt có một ống xương biến thành tượng Phật, và một đốt xương khác biến thành đài sen. Tất cả đều là sự thật. Cụ Triệu Vinh Phương đã thành tựu đạo quả ngay trong một đời chỉ nhờ vào năm năm chí thành niệm “Adi-đà Phật”.
Thấy vậy anh mới ước ao sao, trong dòng tộc mình có được những người vãng sanh. Anh xin cầu nguyện cho tất cả mọi người, cả thân lẫn sơ, mau mau tỉnh ngộ, suy xét lại thế đời, chỉnh đốn pháp tu, nhanh chóng phát tâm Niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ để được viên mãn Phật Đạo như cụ Triệu Vinh Phương. Cuộn video này vừa được chuyển âm tiếng Việt, anh đang nhờ chuyển qua hệ NTSC để gởi về VN và các nước khác để giúp người VN. Nếu muốn coi chắc chắn em sẽ thấy tận mắt một trường hợp vãng sanh quý báu này!
Trong thư em nói “Em sợ Má em đi theo cái cảnh của mợ Hai Thừa chắc em chết mất”. Đọc hàng chữ này anh Năm nghẹn ngào và thấy thương em nhiều hơn. Trong đời của dì Hai cũng không có làm điều gì sai trái cho lắm. Dì có tâm hồn rộng lượng, vui vẻ thoải mái với mọi người. Dì chỉ có một cái tội là không chịu tin Phật thành ra nhiều lúc hơi ngạo mạn đối với Phật pháp. Sau cùng dì chịu nạn thật khá nặng. Năm 93 anh về, cầm tay người dì ruột mà anh rơi nước mắt. Lúc đó anh chưa hiểu Phật pháp là gì cho nên không có một lời khuyên. Thật là tội! Bây giờ anh thấy con đường giải thoát thì dì đã đi rồi, còn cách nào cứu được nữa. Ôi! Đành chịu theo số mệnh!
Trong chuyến đi vừa rồi, anh có đến Buffalo (Mỹ) để thăm anh năm Lang con của dì, anh khuyên anh đó phải lo báo chữ hiếu với người cha. Anh Lang chịu nghe theo và hứa viết thư khuyên bác Hai niệm Phật. Đây cũng là chuyện lạ trên đời, vì từ hồi giờ anh Lang không tin Phật, ngay trước ngày anh đi, anh Lang còn điện thư (email) cho anh và gọi anh là người “ngũ thập nhi bất tri thiên mệnh” vì anh ưa nói chuyện tu Phật. Ấy thế chỉ có một ngày gặp nhau nói chuyện mà anh ta đã tin tưởng và chấp nhận viết thư khuyên bác Hai niệm Phật cầu sanh Tịnh-độ, đó là con đường báo hiếu trọn vẹn nhất mà hồi giờ ảnh không thấy. Cho nên nếu tin Phật Pháp, em nên chân thành khuyên chồng con, anh chị em, bạn bè… tu hành. Người nào tu may người đó. Tin hay không tùy theo căn lành phước đức của họ, riêng em nên bắt đầu niệm Phật đi, ai nói đúng sai kệ họ mình cứ lặng lẽ tu. Gặp người chống đối hãy thương họ nhiều hơn chứ đừng sanh tâm ghét bỏ, vì với cái tội phỉ báng chánh Pháp, nếu không hối lỗi thay tâm đổi tánh, họ khó có thể tránh được hiểm nạn về sau. Chỉ vì nghiệp chướng sâu dày họ đành đi theo con đường hiểm nạn. Thương hại thay!
Trong thư, em nói muốn báo đền hiếu thảo nhưng không biết làm sao. Thực ra không riêng gì em mà hầu hết con người trên thế gian này không biết cách nào để báo hiếu. Họ sống bừa bãi, nghĩ đơn giản rằng làm một ít việc lành cho cha mẹ là báo hiếu, chứ thực ra làm lành mà không có trí huệ coi chừng việc lành của mình lại thành việc ác và gây thêm tội chướng nữa là khác. Ví dụ, nhiều người tới ngày giỗ thì giết heo gà để cúng, ngày đám cưới thì làm con heo quay để lên bàn thờ, cha mẹ đau bệnh thì giết heo bò để tế thần linh cầu cho giải nạn… những hình thức hiếu thảo đó phải chăng tạo nên nghiệp ác chồng chồng, oan gia trùng trùng, quả báo điệp điệp, biết ngày nào mới gỡ nổi! Đọc thư em, anh thấy em có tin Phật nhưng không biết tin ở đâu. Chính ngay cô Bốn cũng vậy, vì không biết đường nào để đi cho nên tâm trí cứ rối bời, chơi vơi thất vọng, phiền não từ đó hiện ra tạo thêm sự khủng hoảng vô ích và nhiều khi còn tai hại nữa. Anh Năm nói sơ qua một vài căn bản để cho em hiểu về phật Pháp trước, sau đó nếu em tin tưởng anh Năm sẽ tìm cách giúp thêm sau.
Đầu tiên nên hiểu rằng Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thị hiện thành Phật ở cõi Ta-bà này để thuyết kinh giảng đạo cứu độ chúng sanh. Ngài thuyết giảng trong 49 năm trường đã để lại 84 ngàn pháp môn tu tập. 84 ngàn pháp môn tu tập để đối trị với 84 ngàn phiền não tâm bệnh của chúng sanh. Thực ra, Phật thuyết kinh giảng đạo không có một định thuyết, mà chỉ tùy cơ ứng thuyết, tùy bịnh cho thuốc để cứu trị mà thôi. Điểm chính yếu của Phật là sau cùng nói lên cái nguyện hải độ sanh của đức A-di-đà Phật để cứu độ tất cả chúng sanh vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc, một đời viên mãn Phật quả. Danh hiệu A Di Dà Phật đã trở thành pháp môn tối thắng có thể độ nhất thiết chúng sanh bình đẳng thành Phật. Chính vì phương tiện độ sanh tối vi diệu, tối viên mãn mà chư Phật mười phương đều nhất tâm tán thán và hộ niệm. Như vậy mục đích chính của đức Thích-ca Mâu-ni Phật xuống phàm là dạy cho chúng sanh câu phật hiệu “A-di-đà Phật” để quy nạp chúng sanh về cõi Cực-lạc, một đời liễu thoát sanh tử. Tu hành ít người liễu ngộ điều này cho nên thường cứ chạy theo cái thị hiếu ngoài, ham nhiều pháp môn, hiểu nhiều thuật ngữ, hoặc cầu xin phước báu… thì làm sao thoát nạn cho được, nhất là thời mạt pháp này chướng nạn trùng trùng, vạn người tu tìm không ra một người đắc. Năm 1999, ở Trung Quốc có cụ Triệu Vinh Phương niệm Phật vãng sanh, đã được thâu hình tại chỗ. Trong lời thư bái tạ của con trai cụ, khởi đầu đã nêu ra đoạn kinh Phật rằng: “Danh hiệu A-di-đà Phật có đầy đủ vô lượng vô biên bất khả tư nghị, thậm thâm bí mật, tối thắng vi diệu, vô thượng công đức”. Vì sao? Vì “danh hiệu A-di-đà Phật đã gồm có 10 phương tất cả chư Phật, chư Bồ-tát, Thanh Văn, A La Hán, tất cả chư Đà La Ni, thần chú vô lượng hành pháp. Là pháp vô thượng chí cực đại thừa, tối thắng, thanh tịnh, liễu nghĩa diệu hạnh”. Nhờ sự vi diệu này mà bà cụ Triệu Vinh Phương chỉ thành tâm Niệm Phật 5 năm đã tự tại vãng sanh trong ánh quang minh của Phật, viên thành Phật Đạo.
Nói tóm lại, muốn cứu má em thì em nên mau mau khuyên cô hãy làm đúng theo những gì anh Năm nói trong thư này, thì anh tin chắc cô được giải cứu. Phật A-di-đà sẽ cứu độ cô. Nên nhớ nếu tin tưởng vững chắc thì kết quả sẽ đến ngay. Anh Năm tóm tắt những điểm chính sau, sau này nếu còn thấy chỗ nào thiếu anh bổ túc thư sau:
Hãy hiểu rõ đời này vô thường, có sinh có tử là chuyện đương nhiên. Tử sanh đều nằm trong số mạng cả, lúc chưa tới số chết có năn nỉ cũng không chết, lúc đã tới số thì có cúng trăm miễu ngàn chùa cũng không lưu lại được đâu, (chỉ trừ những vị đạo pháp cao dày mới tự tại tử sanh). Thế thì lo sợ ích lợi gì. Chết là cái thân bất tịnh này chết, chứ chính ta, cái thần thức của ta không bao giờ chết. Nghĩa là sau khi bỏ xác thân này rồi ta vẫn còn sống, chỉ sướng hơn hay khổ hơn mà thôi. Nếu biết sướng hơn thì lo cầu đi sớm cho khỏe. Nếu biết sẽ khổ hơn thì ngay bây giờ phát tâm tu hành để chuyển nghiệp vẫn còn kịp. Đã đến giai đoạn này ngoài niệm Phật ra không còn cách nào cứu thoát được đâu. Chắc chắn như vậy.
Biết rõ rằng thần thức của ta không bao giờ chết, thì hãy mau mau chọn cảnh giới tốt lành để về khi hết báo thân này. Trong tất cả mọi thế giới chỉ có thế giới Cực-lạc là tối thắng nhứt. Cho nên ngày đêm nguyện cầu sanh về Tây-phương Cực-lạc với Phật. Cứ thành tâm phát lời nguyện, ví dụ:
“Nam-mô A-di-đà Phật, con xin phát nguyện khi hết báo thân này vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc của Phật A-di-đà. Cúi xin Phật thương con mà nhiếp thọ, từ bi tiếp dẫn”.
Nên phát nguyện mỗi ngày mới giữ được chí nguyện. Nên nhớ lời nguyện có sức mạnh quyết định đường vãng sanh. Cho nên có nguyện thì có đi, không nguyện không bao giờ được đi.
Đừng để mất thời gian nữa. Bắt đầu niệm Nam-mô A-di-đà Phật ngay. Nếu khỏe thì niệm thành tiếng, không khoẻ thì niệm thầm trong tâm. Nên nhép môi theo tiếng niêïm để tự thức tỉnh, tránh hôn trầm, tránh mê man bất tỉnh hay chìm trong ác mộng. Khi ngủ hãy niệm thầm cho đến khi thiếp luôn. Trong giấc ngủ nếu có mộng, dù dữ hay lành, nhất thiết đừng sợ cũng đừng mừng, cứ việc thành tâm niệm Phật. Chắc chắn mọi sự đều được qua khỏi. Nếu trong giấc ngủ niệm không được thì vừa thức giấc hãy niệm Phật liền. Làm được như vậy chắc chắn được chư Phật hộ niệm, mọi cảnh ma chướng đều phải lánh xa và cô được bảo vệ an toàn.
Dứt khoát bỏ tất cả mọi ý nghĩ sai lầm, dẹp tất cả mọi vọng niệm, bỏ tất cả những sự lo lắng, sợ sệt. Hãy nhiếp tâm vào tiếng niệm Phật, lấy câu A-di-đà Phật dập tắt tất cả vọng niệm, nghĩa là hễ có ý nghĩ gì nổi lên thì niệm A-di-đà Phật liền để dập tắt nó. Tâm tâm tưởng tưởng đều hướng về đức Phật A-di-đà. Nhứt tâm, vững lòng tin vào sự cứu độ của Phật A-di-đà, hãy kiệt thành tin tưởng nghĩ nhớ tới Phật, niệm Phật tương tục trong điều kiện đó sẽ tương ưng với quang minh của Phật Di Đà liền, tất cả nghiệp chướng được tiêu trừ rất nhanh chóng. Nếu báo thân này chưa mãn thì cô sẽ lành bệnh sớm. Nếu báo thân đã mãn sẽ thấy Phật tới báo (hoặc nằm mộng thấy hoặc được Phật thọ ký ngay trong lúc thức tỉnh).
Chính em phải thường xuyên bên cạnh cô để niệm Phật phụ gọi là hộ niệm. Cứ việc thành tâm niệm Phật cho cô thì tự nhiên nghiệp chướng sẽ tiêu trừ và sau cùng được vãng sanh Tây-phương. Tụng kinh, cầu sám chỉ tiêu trừ những hiện nghiệp nhẹ mà thôi, không thoát nạn được. Trong lúc đang lâm chung mà tụng kinh chỉ làm loạn tâm, không tốt. Niệm Phật hộ niệm là tốt nhứt.
Thôi anh Năm ngừng. Làm con hãy lấy hiếu dưỡng phụ mẫu làm đầu. Chữ hiếu đạo không phải nhỏ đâu. Em phải ráng cố gắng chăm sóc cho cô để trả cho tròn chữ hiếu. Chăm sóc việc ăn uống, thuốc thang, nuôi dưỡng nhục thân là trả Tiểu Hiếu. Lo cho cha mẹ vãng sanh Cực-lạc, thoát vòng sanh tử là trả Đại Hiếu. Người nào thực hành pháp môn niệm Phật, ngày đêm liên tục niệm “Nam-mô A-di-đà Phật” để cầu sanh Tịnh-độ, thì chỉ một đời này thôi sẽ vãng sanh về Tây-phương Cực-lạc Thế Giới. Nhớ kỹ nghen.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Thương em,
Anh Năm.
(Viết xong, ngày 28/9/2001)
Chuyên niệm A-di-đà. Chẳng cần trừ vọng tưởng. Chỉ cần tiếng chẳng dứt. Quyết định sanh An Dưỡng. (Luyến Tây Đại Sư). |
Như Lai sở dĩ hưng xuất thế,
Duy thuyết Di Đà bổn nguyện hải.