Khế Lý – Khế Cơ (Tọa Đàm 31) Cư Sĩ Diệu Âm Minh Trị

Share on facebook
Share on twitter

KHẾ LÝ – KHẾ CƠ

(Tọa Đàm 31)

Nam Mô A-Di-Đà Phật,

Mỗi khi mình ngồi với nhau niệm Phật, nhiều lúc chúng ta thấy cảm động vô cùng! Khi niệm Phật như vậy, hãy cố gắnglắng nghe tiếng niệm Phật của mình nó hòa theo tiếng địa chung. Làm sao cho giọng niệm mình tha thiết, thì tự nhiêncó nhiều lúc mình thấy cảm động! Có nhiều người niệm Phật đã cảm động mà rơi nước mắt. Nước mắt rơi tầm tã!…

Trong ngày hôm nay, chúng ta có đi hộ niệm. Quý vị thấy đó, muốn cứu một người vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc, không phải đơn giản đâu! Khó vô cùng!…

Tại sao mà khó dữ vậy? Là vì chúng sanh trong đời này ít hiểu đạo. Nhiều người muốn tìm hiểu mà không có ai dẫn dắt. Suốt cuộc đời tu hành, có người đến khi gần mãn báo thân cũng không biết đường nào để đi! Ngày hôm nay mình đi hộ niệm, mình thấy rõ rệt chuyện này. Nhiều khi muốn cứu người ta mà không biết làm sao để cứu. Người ta cứ xác định rằng, tu hành tức là không ăn gian của ai, không ăn cắp của ai, tức là tu hành rồi… Người ta không biết gì về Tây Phương Cực Lạc cả, họ không có quan niệm gì về vãng sanh hết trơn. Phải chăng, trong suốt cuộc đời của họ không bao giờ gặp qua một người dạy cho họ niệm một câu A-Di-Đà Phật, chỉ cho họ lời phát nguyện vãng sanh Tây Phương!…

Cũng ngày hôm nay, bác Minh Trí nói một câu mà tôi thấy hay vô cùng. Bác nói rằng:

– Thực sự là trong đời này mình đã gặp chuyện này, chuyện niệm Phật này nè, để được về Tây Phương là may mắn,may mắn không tưởng tượng được. Nếu không gặp trường hợp này, bảo đảm rằng nhiều khi suốt cuộc đời của mìnhcho đến khi nằm xuống, cũng không biết đường về Tây Phương đâu à! Mà đã không biết đường về Tây Phương, thìchắc chắn không bao giờ mình cất một lời nguyện, “Nguyện con được vãng sanh Tây Phương”. Không bao giờ đâu à!… Rồi chắc chắn đến giờ phút nằm ngáp ngáp để rời bỏ báo thân này, không bao giờ cất lên được một câu danh hiệu Phật đâu à!…

Bác Minh Trí nói hay quá! Trong đời này mà gặp được cái cơ hội này, thực sự là may mắn, may mắn không tưởngtượng được. Chính Diệu Âm này cũng có lăn lộn trong trường đời, cũng có học hỏi, cũng có đọc sách, đọc kinh đủ thứ hết, nhưng đến năm mươi tuổi đầu, hoàn toàn không biết câu A-Di-Đà Phật. Cho đến một lúc tới Tịnh-Tông Học-Hội, vừa nghe người ta niệm câu A-Di-Đà Phật, mới ngộ ra, giựt mình luôn, tỉnh ngộ luôn. Giựt mình đến nổi mà đổ mồ hôi ra luôn! Ngỡ ngàng!…

Có cơ hội này thực sự là do thiện căn phước đức của chính mình trong nhiều đời nhiều kiếp chắc có tu hành rồi, đến nỗi bây giờ gặp một câu A-Di-Đà Phật giựt mình tỉnh ngộ. Còn khi trong quá khứ mình không có thiện căn phước đức, thì quý vị thấy không?… Năn nỉ hết lời cũng không bao giờ người ta nghe đâu.

Cho nên cứu người khó! không phải là cái pháp Niệm Phật không vi diệu, mà tại vì chính con người không chịu tin!

Chúng sinh trong đời này rõ ràng tam ác đạo đang chờ trước mắt họ nhưng mà…

– Họ vẫn không sợ!

– Họ vẫn không ngại!

– Họ coi chuyện đó là quá bình thường!

Vì thực sự cũng do chính cá nhân những người đó trong vô lượng kiếp đã quên đi con đường tu hành.

Ta biết rằng trong vô lượng kiếp chúng ta đã tu hành, đã tu hành mà còn rớt lại đây chứng tỏ rằng, trong những lúc tu hành đó, trong những lúc cúng dường Phật đó, trong những lúc làm thiện làm lành đó, ta có sơ suất điều gì? Nhất định. Nếu sự sơ suất đó mà lập lại một lần nữa trong đời này, thì nên nhớ, đời này là đời mạt pháp rồi, bắt buộc ta phải trôi lăn trong cảnh gọi là, tử tử sanh sanh, khổ đau bất tận, không biết bao nhiêu kiếp nữa.

Những sơ suất đó là gì? Nhiều lắm. Nhưng trong đó chắc chắn có một điểm rất là chính yếu, là điểm này:

– Trước những giờ phút buông xả báo thân ra đi, ta không chịu niệm Phật.

– Trước khi xả bỏ báo thân, ta không nguyện vãng sanh.

– Trước khi xả bỏ báo thân, tâm ta đang chú ý đến chuyện gì khác, chứ không chịu chú ý đi về Tây Phương Cực Lạc.

Đây là cái điểm cuối cùng để mình chịu nạn…

Chính vì vậy, xin thưa với chư vị, ở đây chúng ta cứ nói chuyện hộ niệm, nói liên tục, thực ra tâm ý của chúng ta là muốn cho sự hộ niệm này được loan truyền rộng rãi ra. Chính tôi cũng có viết một lá thư, gọi là thư “Vận Động Hộ Niệm”, tôi gửi đi khắp nơi, và người ta in luôn thành sách. Tôi muốn nhiều người biết về hộ niệm. Nhiều người biết hộ niệm thì sẽ có nhiều người được cái duyên phần vãng sanh Tây Phương Cực Lạc. Trong một gia đình có một người biết hộ niệm, thì hy vọng trong gia đình đó mười người, ít ra cũng có được một người vãng sanh. Ví dụ, xã hội này có một ngàn người mà có một trăm người biết hộ niệm, thì ít ra một trăm người đó được vãng sanh, rồi có thể cứu thêm được một trăm người nữa. Chứ nếu xã hội này có hàng triệu người, mà không một người nào biết hộ niệm, thì với đờimạt pháp này, xin thưa, nhất định phải “Tùng nghiệp thọ báo”. Tùng nghiệp thọ báo là đi trong cảnh tử tử sanh sanh. Trong kinh Phật nói rõ ràng: “Độc sanh, độc tử, độc khứ, độc lai. Khổ lạc tự đương, vô hữu đại giã”.

“Độc Sanh” là mình sanh ra trong cái thế giới này chỉ có một mình! Đi đầu thai một mình, lủi thủi, không ai theo mình hết. Theo nghiệp mà mình thọ sanh…

“Độc Tử” là khi mình chết đi, cũng một mình mình đi thôi! Không có một người nào đi theo mình để chết cả. Trong đờinày, thì vợ vợ chồng chồng, anh anh em em, cha cha mẹ mẹ… nhưng khi chết rồi thì… “Trời ơi!… Sao sợ quá! Hãy né xa ra một chút!”. Khi chưa chết thì cha cha mẹ mẹ. Khi chết rồi thì… “Trời ơi! Sợ quá! Hãy đứng cách xa ra một chút!”Đây là chuyện hết sức lạ lùng!

Chính vì vậy, khi biết được chuyện này, xin chư vị phải trân quý giai đoạn này. Phải củng cố phương pháp hộ niệmcho chính mình, lý hộ niệm cho chính mình. Một lần đi hộ niệm rõ ràng đã hiểu thêm một lý đạo. Lý đạo gì? Con ngườitham chấp. Một khi họ tham chấp thì không cách nào gỡ ra được! Đã tham chấp rồi thì nhất định lục đạo luân hồikhông thể nào thoát được, mà còn sợ rằng bị vướng vào tam ác đạo nữa là khác!…

Xin kể ra đây một câu chuyện hoàn toàn có thật, chính người con của người chết đó đã kể cho Diệu Âm nghe. Anh ta nói rằng, khi mẹ anh chết, vì suốt cuộc đời mẹ anh cứ làm tần tảo để xây căn nhà cho đẹp. Khi mẹ anh ta chết rồi thì không đầu thai được mà cứ bám vào cái nhà đó, bám vào đến nỗi anh phải bán cái nhà luôn. Những người khác không biết, họ mua căn nhà đó, mua xong rồi thì ở không được. Đổi qua đổi lại đến năm đó đã đến bảy đời chủ rồi. Bây giờ đời chủ thứ tám thì không ai dám mua nữa. Mỗi đời chủ như vậy, họ kêu “Thầy Pháp” đến dán bùa, dán đầy hết trước cửa để yếm cái hồn của bà mẹ anh. Nhưng bà mẹ anh đó cũng dữ quá, vẫn không sợ. Có lần người ta nghĩ đến câu: “Nhứt quỷ nhì ma, thứ ba học trò”. Họ bèn kêu năm, sáu đứa học trò tới cho ở không. Học trò nghèo mà, chúng nó kéo nhau đến ở đầy một nhà vậy và chúng quậy phá rầm rầm… Họ nghĩ rằng, chắc chắn con quỷ cũng phải bỏ đi thôi! Nhưng chúng cũng chỉ ở được khoảng chừng hai, ba ngày thì Bà la làng, Bà vác xoong, vác chảo liệng rổn rảng… Tụi học trò sợ mất hồn!… Bỏ luôn!…

Anh đó đến hỏi, bây giờ làm sao? Có cách nào giúp giải quyết được không? Thì Diệu Âm nói rằng, anh muốn thực sựgiải quyết thì anh hãy nghe lời tôi. Bây giờ căn nhà đó hình như người ta cho không, không cần bán phải không? Bán rẻ như cho không. Anh hãy mua lại đi… Mua xong rồi, dọn dẹp sạch sẽ đàng hoàng, gỡ hết tất cả những lá bùa liệng đi. Lập bàn thờ Phật lên. Anh mời chư vị đồng tu tới niệm Phật với anh và anh quỳ trước bàn thờ của mẹ anh, khai thị cho mẹ anh hằng ngày:

– Mẹ ơi! Mẹ tham chấp làm chi cái nhà mà Mẹ bị trở ngại? Giữ cái nhà thì làm sao mà Mẹ có thể siêu sanh! Bị đọa lạcđời đời kiếp kiếp khổ lắm Mẹ ơi! Mẹ hãy quyết lòng niệm Phật đi…

Cứ ngày ngày khuyên Bà. Kêu đồng tu tới niệm Phật. Nhất định niệm Phật sẽ có quang minh phóng tới gia trì, chắc chắn sẽ có một ngày mẹ của anh ngộ ra. Nên nhớ, đã là Mẹ của anh rồi thì không bao giờ nỡ hại anh đâu. Anh hãy làm đi.

Anh đó hứa sẽ làm. Nhưng một năm sau Diệu Âm về Việt Nam, anh đó ở từ rất xa đi tới thăm. Tôi hỏi:

– Anh đã mua lại căn nhà chưa? Anh nói:

– Dạ chưa mua. Tôi hỏi tiếp:

– Tại sao vậy?…

– Tôi sợ quá!…

Anh sợ bà Mẹ của mình!!!… Đây là chuyện có thật.

Quý vị thấy không? Khi mà tình chấp lớn quá rồi. Chịu thua! Gỡ không được. Biết được những chuyện này, muốnvãng sanh về Tây Phương đơn giản lắm. Phương pháp hộ niệm mình nói hàng ngày ở tại đây quý vị nắm vững được chứ gì?… Còn không thì nghe những băng đĩa. Tôi nói 48 ngày thì làm ra băng đĩa, để quý vị lấy ra mà nghe. Những băng nói kỳ trước người ta bắt đầu in thành sách rồi đó. Cái băng này chưa nói xong mà người ta cũng chuẩn bị viết ra nữa rồi. Nghĩa là, nghe nói trong băng rồi viết ra để in thành sách. Nghe tin như vậy mình có chút lòng mừng. Vì sao? Để phổ biến cái chương trình hộ niệm ra. Cái phương pháp hộ niệm này nếu được lan rộng ra bằng DVD, bằng MP3, bằng sách, bằng cách gì cũng được để cho nhiều người biết…

Một gia đình mà có một người biết hộ niệm thì họ “rủ-rỉ, rủ-rỉ” với nhau cũng thêm được hai người trong gia đình. Rồi“rủ-rỉ, rủ-rỉ” tiếp, được ba người trong gia đình… Nhờ ba người đó mà gia đình đó có thể sẽ có một người vãng sanh. Chứ nếu như không biết hộ niệm, không biết đường vãng sanh thì thế gian này chúng sanh sẽ tiếp tục chìm đắm trong biển khổ, sông mê! Dù tu gì thì tu, nói hay gì thì nói, lý luận gì thì cứ việc lý luận… nhưng chúng sanh đọa lạc vẫn cứtiếp tục bị đọa lạc, tại vì người ta không biết con đường vãng sanh. Chứ nếu một người nào biết được phương pháphộ niệm, tức là biết được con đường vãng sanh, thì nhất định, tham chấp phải bỏ ra liền để khi mình nằm xuống, nó rời ra… Bên cạnh đó, nhất định bắt đầu niệm Phật liền. Không bao giờ được quyền chờ đâu à! Đừng nghĩ rằng tôi niệmnhư vầy là đủ! Nếu chúng ta nói đủ, thì nhất định bị thiếu! Chắc chắn.

Trong những ngày khác tôi sẽ kể ra những chuyện tại sao thiếu cho chúng ta nghe.

Phải lập công cứ. Phải cố gắng tăng thêm giờ niệm Phật. Phải lấy tờ giấy ra ghi vô rõ ràng. À! Mình niệm như vậy yếu quá rồi! Một ngày mình niệm chưa tới hai ngàn câu thì làm sao có thể đủ? Có tờ giấy nó nhắc nhở mình, hãy ráng cố gắng niệm ba ngàn, bốn ngàn, năm ngàn câu… Cứ vươn lên, vươn lên. Nhờ vươn lên mà mình có công phu. Trongcông phu đó mình nhiếp tâm được, mới có công đức. Còn mình cứ niệm chơi chơi, mình nghĩ rằng đủ, khi mà tưởng đủ thì nhất định bị thiếu! Thiếu ở chỗ công đức của mình chưa đủ để bồi đắp lại những tội ác mà mình đã gây chochúng sanh. Cho nên chúng sanh đang chờ từng giờ từng phút cái ngày lâm chung của mình, để họ tới đòi cho được cái nợ sinh mạng. Ghê lắm chư vị ơi!…

Khi đi hộ niệm nhiều cuộc rồi mình mới thấy đến chuyện này, mà thấy chuyện này rồi nhất định mình phải sợ! Sợ thì ngày ngày cần phải ngồi trước bàn thờ Phật mà nguyện:

– Nam Mô A-Di-Đà Phật, nguyện đem công đức này hồi hướng cho pháp giới chúng sanh, hồi hướng cho tất cả chư vịoan gia trái chủ trong nhiều đời nhiều kiếp. Tôi đã lỡ hại chư vị, hôm nay xin thành tâm sám hối với chư vị, nguyện cầu chư vị buông xả oán thù, cùng với chúng tôi niệm câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Tôi hứa với chư vị là hồi hướng tất cả công đức cho chư vị và khi tôi đã về Tây Phương Cực Lạc, tôi sẽ trở về đây tìm mọi cách độ chư vị. Chúng ta cùng nhau vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.

Phải nói liên tục như vậy. Người bệnh cũng nói, mà người khỏe cũng phải nói. Phải nói trước, đừng để đến lúc đã tới nơi rồi, thì xin thưa thật, không còn cách nào nói gì được nữa đâu!

Mong cho chư vị hiểu được. Vì một tâm ý muốn chúng ta đừng bị trở ngại trong con đường vãng sanh…

Cố gắng phải tu hành. Nhất định đi về Tây Phương thành đạo trong đời này. Đừng hy vọng đời sau. Xin nhớ cho chuyện này!…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Read more: https://hoiquanadida.com/phap-su/chi-tiet/khe-ly-khe-co-toa-dam-31-2005.html#ixzz7Qq2PhOjr

KHẾ LÝ - KHẾ CƠ (2010)

Mong tất cả chư vị cùng hiểu thấu vấn đề và nhận thức ra rằng, pháp Niệm-Phật thật sự thù thắng, rất hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Còn điểm mạnh của pháp Hộ-Niệm là hướng dẫn chúng ta thực hiện pháp Niệm-Phật một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác và kịp thời hóa giải những ách nạn, vượt qua chướng ngại để đi về Tây-Phương Cực-Lạc. Xin chư vị cố gắng giữ thật chặt cơ duyên này để vãng sanh thành tựu đạo quả.

– Cư Sĩ Diệu Âm Minh Trị –