Hộ Niệm – Hướng Dẫn Khai Thị (Tọa đàm 15)

Share on facebook
Share on twitter

HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ

(Tọa Đàm 15)

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Trong ngày hôm nay Diệu Âm có điện thoại qua bên Perth để hướng dẫn cho một người bị bệnh ung thư chắc cũng sắp sửa ra đi trong ngày một ngày hai. Đó gọi là “Khai Thị – Hướng Dẫn”. Trong mấy mươi phút nói chuyện cũng giải tỏa nhiều điều cho người bệnh. Người bệnh đã quyết lòng nguyện vãng sanh, chuẩn bị để đi về Tây Phương Cực Lạc, không có sợ chết!

Trong cuộc điều giải này đã giải tỏa được một vấn nạn mà người ta tưởng rằng không thể giải quyết được, đó là một sự xích mích rồi đưa đến tình trạng giận hờn với một người thân nào đó bên chồng và người bệnh đã thề lên thề xuống rằng nhất định suốt đời không thể tha thứ. Khi nói chuyện xong thì người đó đã quyết tâm tha thứ, quyết buông xả. Diệu Âm có nói:

– Bây giờ kêu người đó đến đây, chị quỳ xuống xin lỗi người đó. Không những là không trách người ta mà còn xin lỗi nữa. Chị chịu không?…

– Chịu!…

Rồi tôi nói với ông chồng:

– Bây giờ chị đã sắp chết rồi, anh đi kêu người đó tới đây, rồi bảo người đó rằng, vì một người sắp chết mà quỳ xuống trước mặt người bệnh, rồi cũng xin lỗi để hóa giải mọi sự giận hờn. Anh chịu không?…

– Chịu!…

Tôi nói, vậy là được rồi! Khai thị hộ niệm là vậy đó, không phải là giảng pháp, giảng kinh gì đâu. Mình nói hết sức là tình cảm, vui vẻ, không có gì phải lễ mễ hết. Cách nói cũng giống như đang trò chuyện với nhau, khuyên giải để xả bỏ cho được những gút mắt…

Chị đó là người sắp phải chết rồi. Trước khi đến, tôi đã được ban hộ niệm cho biết rằng chị vẫn còn chấp, vì một sự giận hờn nào đó mà không chịu buông tha. Đây là điểm cần phải chú ý. Để hóa giải vấn nạn này, khi nói chuyện tôi tìm cách khều chuyện này ra. Tôi nói:

– Bây giờ chị phải bỏ hết nghe không? Không lo lắng, không buồn phiền, không giận hờn ai, không thương nhớ ai hết nhé… Ông xã này cũng phải bỏ luôn nhé…

Tôi tìm cách khèo khèo cho ra chuyện này mà. Chị đó mới tự thú rằng:

– Nhưng có một người tôi ghét quá, không thể nào tha được!

Tôi nói:

 Nếu chị muốn đi về Tây Phương làm Bồ-Tát. Bồ-Tát thì phải có tâm đại từ đại bi, tâm quảng đại, không được ghét một người nào chứ. Muốn làm Bồ-Tát mà lại ghét người ta thì làm sao được!?… Chị căm ghét người ta, chị không tha thứ cho người ta, thì làm sao oan gia trái chủ có thể tha thứ cho chị?…

Chị nghĩ thử, người chị ghét đó dù có lỗi như thế nào đi nữa thì cũng chỉ nói sơ suất một chút xíu thôi, chưa động tới cái móng tay của chị, mà chị thề lên thề xuống giận hờn, căm ghét như vậy! Bây giờ những chúng sanh mà chị cắt cổ, mổ ruột, nhổ lông, xẻ thịt người ta ra để chị ăn… thì cái mối thù này làm sao người ta có thể tha cho chị?…

Cho nên, chị tha cho người ta thì oan gia trái chủ mới tha cho chị. Chị có tha cho người ta thì chị mới xứng đáng với cái tâm Bồ-Tát, chị mới có thể về Tây Phương thành Phật thành Bồ-Tát được chứ!…

Nghe nói thấm quá chị mới chịu tha. Sau đó, chị đó lại ngỏ ý tha thiết muốn tôi đến hộ niệm cho chị. Tôi nói rằng, ở bên đó có ban hộ niệm, cứ theo y hệt như vậy mà làm đâu cần phải có tôi? Chị đó nói:

– Nhưng mà tôi không an tâm!…

Vì lòng tha thiết của người bệnh và gia đình, cho nên có thể ngày mai hay ngày mốt Diệu Âm phải bay qua đó một chuyến, có thể khoảng hai, ba ngày gì đó để cho người ta an tâm…

Đây là vấn đề tâm lý mà thôi, chứ thật ra tôi không có năng lực đặc biệt gì đâu! Người lạ đôi khi dễ nói chuyện hơn. Vì người ta tin tưởng vào tôi thì tôi nên đến. Tôi đến cũng nói như bao nhiêu người khác vậy thôi, nhưng vì lòng tin của họ vào tôi mà tôi có thể dễ làm cho người bệnh an tâm. Nhờ một chút an tâm như vậy mà có thể người ta được vãng sanh…

Thưa với Sư Cô cùng chư vị, chương trình hướng dẫn hộ niệm cho người bệnh đến nay có thể tổng kết được rồi để bước qua phần khác. Những điểm mình cần chú ý trong cách “Khai Thị – Hướng Dẫn” là:

– Thứ nhất là người bệnh phải tỉnh táo. Ví dụ như bà chị đó còn tỉnh táo. Dù rằng mặt chị đã sưng lên rồi, đây làtriệu chứng báo cho biết là chuẩn bị sắp chết rồi, nhưng vẫn còn tỉnh táo, vẫn còn nói chuyện được. Nếu người bệnh bịmê man bất tỉnh thì thôi chịu thua, không có cách nào có thể hướng dẫn được.

Hiểu được chỗ này, muốn được hộ niệm, gia đình người bệnh phải liên lạc với ban hộ niệm càng sớm càng tốt, phải mời ban hộ niệm trong lúc người bệnh còn khỏe, còn tỉnh. Còn tỉnh thì mình mới dễ hướng dẫn người ta được.

Nói đến đây cũng như để nhắc nhở chúng ta biết rằng, khai thị cho người bệnh chính là khai thị cho chính mình. Tất cả những gì cần thiết về hộ niệm mình biết hết, thì lúc đến phiên mình khỏi cần phải khai thị nữa.

– Một điểm cần phải chú ý nữa là làm sao cho người bệnh phát khởi niềm tin. Hãy vận dụng tất cả những gì khôn khéo của mình ra để giúp cho người bệnh tin tưởng. Có nhiều khi mình muốn khuyến tấn người bệnh, nhưng người bệnh không phát được lòng tin, nhưng khi nhờ đến người khác giúp đỡ, như nhờ một người chú, người bác, người anh, người em tới nói thì họ lại nghe. Đó là vì có duyên với nhau. Nhiều khi chính mình không có duyên nhưng những người khác lại có duyên. Cần nên chú ý điểm này.

Mấy hôm nay Diệu Âm thường hay nói rằng, chúng ta cần phổ biến phương pháp hộ niệm, vận động cho rộng ra. Vì nhiều khi trong gia đình chúng ta nói hoài mà người mẹ không nghe, nhưng biết chừng đâu khi ra ngoài chợ, đi ra ngoài đường gặp một người nào đó nói:

– Trời ơi! Bây giờ già rồi! Trước sau gì cũng phải ra đi, mình phải cần tới hộ niệm. Hộ niệm hay lắm!

Chỉ cần một người ở ngoài nói một lời như vậy mà làm người mẹ của mình giật mình, làm người cha của mình giật mình, làm người không tin đó giật mình… Nhờ duyên này mà người ta tin. Khi khởi phát niềm tin rồi thì tự nhiên thiện căn phước đức nảy nở lên, nhờ đó mình hộ niệm mới được.

Đi thuyết cho người ta tin, thì chính mình phải tin. Đã tin thì phải đi cho vững, đừng có đi chập choạng. Pháp môn niệm Phật rất tối kỵ chuyện tạp tu. Đó là sự thật. Ví dụ như chị đó ở Perth, thuộc một gia đình có chồng con theoThiên Chúa Giáo, còn chị thì theo Phật Giáo. Thật ra thì lâu lắm mới tới chùa thăm một lần chứ đâu có tới chùa hoài. Như vậy thì đâu có tu hành gì! Nhưng cuối đời, nghe người hướng dẫn vãng sanh, tự nhiên phát lòng tin tưởng, quyết một đường mà đi, cứ câu A-Di-Đà Phật mà niệm. Tôi hy vọng rất nhiều rằng chị sẽ ra đi để lại thoại tướng bất khả tư nghì cho chư vị coi…

Còn nếu chúng ta tu như thế này mà không vững lòng tin vào câu A-Di-Đà Phật, cứ tưởng rằng câu A-Di-Đà Phật là yếu, câu A-Di-Đà Phật là dở, nên thường vay cái này một chút, vay cái kia một chút! Không ngờ chuyện vay mượn này đã xác định rằng chính cái tâm của mình không vững vàng niềm tin. Không vững vàng niềm tin thì lực niệm Phậtkhông mạnh, làm cho sau cùng chủng tử A-Di-Đà Phật không ứng hiện được. Đây là điều rất quan trọng, xin nhắc đi nhắc lại thật kỹ cho chúng ta nhớ, để khi chúng ta đi hộ niệm phải làm sao cho người bệnh thấy rằng một câu A-Di-Đà Phật là tất cả. Muốn được vậy, đầu tiên chính người hộ niệm phải vững cái tâm niệm này trước.

Một người tu càng tạp chừng nào thì chứng tỏ niềm tin vào câu A-Di-Đà Phật của người đó càng yếu chừng đó!

Sẵn đây xin nói thêm một điều nữa. Một pháp môn có một tông yếu riêng, có một pháp hành trì riêng. Chúng ta không nên phạm đến quy luật của pháp môn đó, thì sự tu tập của mình sẽ được nhiều thiện lợi.

Ví dụ như tu theo một pháp môn về tự lực, thì chủ yếu của họ là phải diệt cho sạch nghiệp chướng. Vấn đề nghiệp chướng đối với họ lớn vô cùng, bắt buộc họ phải tìm cách diệt cho sạch. Vì vậy, tâm tâm nguyện nguyện của người tutự lực là diệt nghiệp, gọi là “Đoạn Hoặc Chứng Chân”.

Còn pháp môn niệm Phật không phải lấy việc diệt nghiệp làm chính, mà lấy Tín-Nguyện-Hạnh làm chính. Từng câu A-Di-Đà Phật với Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ thì tự nó phá nghiệp, tự nó hóa giải chướng nạn. Giả như hóa giảichướng nạn không được, thì A-Di-Đà Phật cũng cho ta “Đới nghiệp vãng sanh”, nghĩa là mang nghiệp đi về Tây Phương.

Người tu pháp môn niệm Phật được thành tựu chính là nhờ sự tiếp độ của A-Di-Đà Phật. Còn đối với các pháp mônkhác thành tựu chính là tự lực tu chứng, nghĩa là phải diệt cho hết nghiệp chướng. Nghiệp chưa sạch, tình chưa không thì nhất định không có phần thoát vòng sanh tử. Còn ở đây chúng ta nhờ lòng chân thành niệm Phật cầu vãng sanh mà được nguyện lực đức A-Di-Đà Phật tiếp dẫn về Tây Phương. Xin nhớ cho vững nguyên tắc này.

Khi vững nguyên tắc này rồi, thì ngày ngày đêm đêm lo chuyên tâm niệm Phật. Để chi vậy? Giả sử như một cái thùng lô-tô, chứa đựng rất nhiều con số, số này, số nọ, hàng trăm hàng ngàn con số, mình muốn được con số nào? A-Lại-Da thức của chúng ta giống như một cái thùng lô-tô vô đáy. Chủng tử ác, chủng tử thiện, chủng tử Phật, chủng tử Ma,chủng tử Quỷ,… đủ thứ chủng tử chứa đựng bên trong cái A-Lại-Da thức này. Có vô lượng vô biên chủng tử trong đó.

Đã biết rằng vô lượng vô biên chủng tử mình đã tạo ra từ trong vô lượng kiếp đều chứa trong đó rồi, mà bây giờ chúng ta còn sơ ý thì những chủng tử đó có thể nó ứng hiện ra, ứng hiện cái nào mình bị cái đó.

Như vậy bây giờ làm sao đây?… Bây giờ phải ngày ngày đêm đêm tranh thủ từng giờ từng phút mà tiêm chủng tử A-Di-Đà Phật vào trong A-Lại-Da thức, để chủng tử A-Di-Đà Phật càng ngày càng nhiều trong tâm, nó bao tất cả nhữngchủng tử khác lại. Niệm Phật thì:

– Tâm của mình luôn luôn hướng về Tây Phương.

– Tâm của mình luôn luôn nghĩ tới Phật.

– Tâm của mình lúc nào cũng đắm trong câu A-Di-Đà Phật, gọi là “Tâm trú niệm Phật trung”.

Để chi vậy?… Để cho khi mình nằm xuống, tất cả những chủng tử dù cho vô lượng vô biên tràn ngập từ vô lượng kiếp vẫn còn nguyên đó, nhưng tâm chúng ta đang duyên đến chủng tử A-Di-Đà Phật, để sau cùng ta vẫn nhớ và niệm một câu A-Di-Đà Phật. Chính cái niệm cuối cùng này là cái duyên đưa chủng tử A-Di-Đà Phật của chúng ta xuất hiện ra, gọi là “Phật Tánh Lực” của ta ứng hiện lên, thì A-Di-Đà Phật phóng quang đến tiếp độ được chúng ta đi về Tây Phương.

Còn nếu những người cứ sợ nghiệp! Bây giờ sợ nghiệp thì khi nằm xuống chắc chắn họ cũng sợ tới nghiệp! Mà tâm sợ nghiệp thì tâm duyên tới nghiệp. Tâm duyên tới nghiệp thì hàng vạn cái nghiệp sẽ ứng hiện trong tâm, nó sẽ dìmchủng tử A-Di-Đà Phật xuống. Chịu thua rồi!…

A-Di-Đà Phật chỉ có tiếp độ Tự Tánh Di Đà, nghĩa là chỉ tiếp độ chủng tử A-Di-Đà của chúng ta, chứ A-Di-Đà Phật không tiếp độ cái nghiệp của chúng ta. Những người tu hành càng xen tạp chừng nào, thì sau cùng càng khó vãng sanh chừng đó, nguyên do chính là ở chỗ này.

Mong chư vị hiểu được lý đạo này, mới biết rằng những người nào tu xen tạp sẽ rất khó vãng sanh! Muốn vãng sanhTây Phương Cực Lạc mà tu xen tạp là một đại chướng ngại cho họ! Dù người đó tu hành có giỏi hơn cái bà ở trên thành phố Perth, nhưng chưa chắc đã hơn được bà! Chúng ta thấy rất rõ rằng bà ở thành phố Perth đâu có tu hành gì! Khi bà đó biết được niệm Phật là lúc đã bị ung thư sắp chết rồi. Gặp người hộ niệm nhắc nhở đường vãng sanh, bà mới phát lòng tin và chỉ cần từ đây niệm Phật. Họ nhắc rằng, bà phải nhớ Phật nghe, niệm Phật nghe, nghĩ tới Phật nghe, không sợ chết nữa nghe… Bà làm được như vậy thì tự nhiên Tự Tánh Di Đà ứng hiện, dù có thể bà niệm Phậtmột ngày thôi, chủng tử A-Di-Đà Phật chỉ thâm nhập có mười chủng tử thôi, nhưng mà bắt đầu từ lúc có cái chủng tửA-Di-Đà Phật đó, thì bà:

– Luôn luôn nhớ tới A-Di-Đà Phật.

– Luôn luôn nghĩ tới A-Di-Đà Phật.

– Luôn luôn nhớ về Tây Phương.

Thì cái niệm cuối cùng này nó duyên đến chủng tử A-Di-Đà Phật, vô tình chân tâm tự tánh của bà đó sẽ vẹt tất cả những nghiệp chướng, vẹt tất cả những đám mây mù mà ngoi lên. Được A-Di-Đà Phật phóng quang tiếp dẫn về Tây Phương Cực Lạc.

Chính vì vậy chúng ta về Tây Phương là nhờ Phật tiếp độ chứ không phải là tự lực tu chứng. Xin chư vị nắm vững lý đạo này cho thật rõ ràng.

Ngài Ấn Quang Đại Sư nói “Chí Thành – Chí Kính là đạo nhiệm mầu để ta về Tây Phương, chứ không phải là tự chứng đắc”.

Mong cho chư vị hiểu được như vậy để chúng ta đi về Tây Phương không bị chướng ngại.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Read more: https://hoiquanadida.com/phap-su/chi-tiet/ho-niem-huong-dan-khai-thi-toa-dam-15-266.html#ixzz7R0UZDYJ7

HỘ NIỆM HƯỚNG DẪN – KHAI THỊ (2011)

Mong tất cả chư vị cùng hiểu thấu vấn đề và nhận thức ra rằng, pháp Niệm-Phật thật sự thù thắng, rất hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này. Còn điểm mạnh của pháp Hộ-Niệm là hướng dẫn chúng ta thực hiện pháp Niệm-Phật một cách đầy đủ, cụ thể, chính xác và kịp thời hóa giải những ách nạn, vượt qua chướng ngại để đi về Tây-Phương Cực-Lạc. Xin chư vị cố gắng giữ thật chặt cơ duyên này để vãng sanh thành tựu đạo quả.

– Cư Sĩ Diệu Âm Minh Trị –