Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 89)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Xin chư vị mở trang 38, câu (p): Người không tin vãng sanh không thể được vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Vấn đề này khá tế nhị. Một người chân chánh tu hành, công phu rất tốt, nhưng nếu người đó không nguyện vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì nhất định không được vãng sanh. Hãy nhớ cho kĩ điều này. Chân tu tức là người thực sự chân chánh tu hành. Một người chân tu, nếu có duyên niệm Phật cầu sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì rất dễ vãng sanh, vì người chân tu thì khi tin họ có tín tâm thanh tịnh, khi nguyện lời nguyện của họ chí thành tha thiết. Tâm chí thành chí kính là đạo pháp vi diệu giúp họ cảm ứng đạo giao bất khả tư nghì.
Sự chân chánh tu hành quan trọng lắm. Nhiều người ngày ngày đều có niệm Phật nguyện vãng sanh, nhưng trong lòng thì nghi nghi ngờ ngờ rằng:
- Không biết niệm Phật vãng sanh có thực sự không?
- Tại sao người kia tu hành cả một đời, nhưng sau cùng có hiện tượng gì vãng sanh đâu?
- v… và v.v…
Nghi nghi ngờ ngờ mãi thì không thể nào gọi là chân chánh tu hành. Không chân chánh tu hành thì dù niệm Phật suốt đời cũng chỉ là hình thức niệm chứ đâu phải tâm niệm. Tín tâm không thanh tịnh thì nhất định không thể đạt được thật tướng, nghĩa là cuối cùng không thành tựu được mục đích vãng sanh. Vậy thì, một người niệm Phật không được vãng sanh, xin đừng đổ lỗi cho Pháp Niệm Phật không vi diệu nhé.
Niềm tin rất quan trọng. Ngài Mộng Đông dạy rằng, tất cả đều ở vào niềm tin. Nhiều người cứ nghĩ rằng mình có nghiệp chướng nặng quá, nên không thể vãng sanh. Nếu chư vị nào còn nghĩ như vậy, thì chư vị sẽ mất phần vãng sanh thực đấy. Còn khi nghe được lời kinh Phật dạy rằng, dẫu cho một người tội chướng sâu nặng, ngũ nghịch thập ác, tạo tội đến quả báo địa ngục A-Tỳ, nhưng biết tỉnh ngộ sám hối, niệm Phật cầu vãng sanh, vẫn được vãng sanh, thì hãy mau mau phát tâm tin tưởng vững vàng, thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh để kịp thời về Tây-Phương Cực-Lạc thành đạo.
Trong kinh Phật huyền ký rất nhiều về chuyện này, nhất là trong kinh Tịnh-Độ. Trong kinh Quán Vô-Lượng-thọ có nói về ông A-Xà-Thế, một ông vua giết vua cha cướp ngôi, kết bè với Đề-Bà-Đạt-Đa hại Phật, bắt mẹ giam trong lãnh cung, không cho ăn để cho chết. Tội này thuộc về ngũ nghịch, quả báo đến địa ngục A-Tỳ. Nhưng cuối đời nhờ quần thần nhắc nhở, ông đã kiệt thành sám hối niệm Phật cầu vãng sanh và được vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc tới Thượng Phẩm Trung Sanh.
Đây là một trường hợp hộ niệm vãng sanh được Phật nói trong kinh Quán-Vô Lượng-Thọ. Ban hộ niệm chính là quần thần trong triều, đến nhắc nhở chỉ điểm cho đường thoát nạn. Ông vua A-Xà-Thế đã ăn năn hối hận, quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh và ông đã được vãng sanh.
Giả sử như lúc đó Ngài A-Xà-Thế nghĩ rằng ta làm vua muốn giết ai cũng được, không hồi đầu sám hối, thì Ngài đã thọ nạn ở địa ngục rồi. Hoặc giả có sám hối tội lỗi, nhưng lại nghĩ rằng, vì tội nghiệp quá lớn không cách nào có thể vãng sanh được, nên chỉ kiệt thành sám hối, quyết tâm tu hành để chuộc lại tội lỗi của mình, thì Ngài vẫn phải xuống địa ngục A-Tỳ chịu hành hình mà chuộc tội. Thời gian từ đó đến giờ trên thế gian này đã qua 3.000 năm, thì ở địa ngục chỉ bằng một vài ngày mà thôi. Thời hạn chịu nạn còn vô lượng kiếp nữa đấy.
Nhưng tuyệt diệu thay, Ngài không đi con đường giải nghiệp chuộc tội, mà quyết lòng đi theo con đường niệm Phật vãng sanh, để quyết một đời được giải thoát, rồi mới dùng cái năng lực của một vị Bồ-Tát bất thoái đi cứu độ chúng sanh, chuộc lại những tội chướng do mình gây ra. Ngài đã vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc Thượng Phẩm Trung Sanh, một đời thành Phật. Tất cả đều do niềm tin thanh tịnh, làm đúng theo lời Phật dạy mà Ngài A-Xà-Thế được thành tựu đạo quả.
Thế mới biết, niềm tin vô cùng quan trọng, vô cùng quan trọng.
(q): Người dù đã gây nên tội lớn, nhưng biết hồi đầu kiệt thành sám hối, niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ vẫn có thể được vãng sanh.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Nội dung câu này vừa được chứng minh bên trên. Hai câu (p) và (q) này đưa ra một vấn đề vô cùng tế nhị. Một người tu nhiều nhưng không tin vãng sanh thì không được vãng sanh. Ngược lại, một người không tu, ít tu, tạo nhiều tội chướng… nhưng cuối đời có cơ may gặp được thiện trí thức khuyên niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, họ phát tâm tin tưởng, kiệt thành sám hối, quyết lòng niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh Tịnh-Độ, vậy mà họ được vãng sanh.
Sự kiệt thành sám hối này có công phu, phước đức, trí huệ không thể sánh bằng những người chân chánh tu hành được, nhưng nhờ thiện căn kết tập được trong nhiều đời kiếp quá khứ, nên khi vừa gặp duyên họ liền phát tâm tin tưởng, kiệt thành sám hối, niệm Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc mà họ được vãng sanh. Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Phật dạy, chí thành chí kính niệm Phật một câu có thể phá tan tội chướng tạo ra trong khoảng thời gian 80 ức kiếp.
Niệm Phật chí thành, niệm Phật nhất tâm tạo nên công đức vô lượng. Nếu niệm Phật không chí tâm, niệm Phật mà ngờ ngờ nghi nghi, thôi đành chịu thua, không có công đức như vậy đâu. Nghi nghi ngờ ngờ niệm Phật không thể vãng sanh được.
Quyết lòng niệm Phật phải đoạn cái niềm nghi ngờ này đi. Niệm Phật phải đoạn nghi sanh tín. Chỉ cần tín tâm vững vàng mà ông A-Xà-Thế một đời tạo tội cực trọng vẫn được vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Chỉ cần có tín tâm vững vàng như vậy mà ông Trương Thiện Hòa một đời giết trâu giết bò, sau cùng tướng địa ngục hiện ra, nhờ được thiện tri thức chỉ điểm, ông phát tâm niệm Phật 15 phút mà được cảm ứng đạo giao, vãng sanh Tịnh-Độ. Còn trong thời nay có những trường hợp nào tương tự như vậy không? Thực sự có nhiều lắm. Ví dụ cụ thể, như nhiều người lầm lỡ phá thai, tạo nên tội chướng sâu nặng, đến sau cùng nhờ được ban hộ niệm chỉ đường dẫn lối, họ quyết lòng ăn năn sám hối, quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh mà được vãng sanh, ra đi lưu lại tướng lành bất khả tư nghì.
Quyết lòng sám hối, niệm Phật cầu nguyện vãng sanh là cái chìa khóa bằng vàng, giúp cho một người tội chướng sâu nặng vượt qua nghiệp lực, theo nguyện lực trở về Tây-Phương Cực-Lạc thành đạo. Phải có niềm tin vững vàng mới làm được chuyện này, không có niềm tin thôi chịu thua. Niềm tin vô cùng quan trọng, xin chư vị nhớ cho.
Hướng dẫn cho người tu tập, mà chư vị cứ nêu lên những hình ảnh có người suốt đời tu hành khổ cực nhưng không được vãng sanh gì cả, thì làm sao một người mê mờ như chị, đạo lý chưa thông lại được vãng sanh? Một người tội lỗi như anh, tu tập chưa tới đâu thì làm sao được vãng sanh? Hãy tới đây bòn mót chút phước báu, rồi đời đời tiếp tục tu hành mới có thể thành tựu đạo nghiệp được. Nói về Lý thì đúng đó, nhưng nói về Sự thì chư vị đã dẫn dắt chúng sanh đi theo con đường sanh tử đọa lạc rồi. Từ một lời nói vô ý này đã chận mất con đường thành tựu của đại chúng, đã cắt mất cơ hội giải thoát của một người, mà đúng ra họ có rất nhiều cơ duyên vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, một đời bất thoái thành Phật.
Xin hãy nhớ cho, Nhân-Duyên-Quả báo thông qua 3 đời, quá khứ, hiện tại, vị lai. Đời quá khứ là đại diện cho vô lượng kiếp qua. Đời tương lai là chỉ cho tương lai vô tận. Quá khứ vô thỉ, tương lai vô chung, liên kết với nhau như những mắc xích. Một người đời này tin tưởng niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ là do thiện căn phước đức tu tập được từ trong quá khứ. Chúng ta không có thần thông đạo lực gì, thì làm sao biết được quá khứ của một người. Vậy thì không thể nhìn vào những sơ suất hiện tại mà xác định họ không được vãng sanh. Người hiểu thấu lý đạo của Phật phải biết hướng dẫn thẳng con đường giải thoát, phải giới thiệu duyên lành cho họ vãng sanh, còn được vãng sanh hay không còn tùy duyên của họ, chứ ta không thể ngăn chận con đường thành tựu đạo nghiệp của một người được.
Chúng ta đời này có mặt ở cõi người đều do nhân duyên dẫn dắt. Quá khứ vô lượng kiếp chúng ta đã tạo tràn trề đủ thứ nghiệp, phước, tội, thiện, ác, tốt, xấu… rồi. Đến một đời trước, trong lúc chết, chúng ta nghĩ điều thiện lành, duyên với cảnh lành mà được sanh làm người. Giả như có một người cũng như vậy, đến một đời trước, trong lúc chết, lại gặp người phá đám, gặp sự hướng dẫn sai lầm, gặp phải nghịch duyên cản trở… mà mê muội chui vào 3 đường ác chịu nạn. Rõ ràng vốn luyến thì tương đồng, nhưng vì gặp duyên thuận nghịch khác nhau mà sinh vào cảnh giới khác nhau.
Một người trong quá khứ tu tập đầy đủ phước lành, nhưng đời này chưa có duyên lành để gặp chánh pháp nên họ vẫn mê lầm tạo ra tội lỗi là chuyện bình thường. Người tu đạo chân chính phải hướng dẫn thẳng đến đường giải thoát cho đại chúng, để nếu một người có sẵn nhân-lành, nay gặp duyên-lành mà hưởng được quả-lành thành tựu đạo quả, chứ không thể nói quanh co, đánh giá cẩu thả, làm mất niềm tin vãng sanh giải thoát, dẫn dắt họ đi theo con đường sanh tử đọa lạc được.
Chính vì thế, học đạo cần phải hiểu đạo. Hãy ngộ ra đi, tin tưởng vững vàng, niệm Phật vãng sanh để thành Phật. Nếu cứ mê mê hồ hồ, lầm lạc chạy theo người thế gian, thì tự mình dẫn độ mình vào trong tam ác đạo chịu nạn. Như vậy, đọa lạc hay cực lạc từ đâu mà ra? Rốt cuộc đều do chính mình tự chọn lấy vậy.
Cho nên, niềm tin vô cùng quan trọng. Đừng bao giờ mất niềm tin mà oan uổng một cuộc đời tu hành đó nhé.
(r): Người chết rồi mà thân xác mềm mại thì chắc chắn được vãng sanh.
Đúng không chư vị? – (Sai). Một người được hộ niệm mà ra đi lưu lại thân tướng mềm mại, có thể người ta được vãng sanh. Nói “có thể vãng sanh” thì đúng, còn nói “chắc chắn vãng sanh” thì sai. Nếu muốn nói “chắc chắn”, thì xin nói rằng, chắc chắn thoát được ba đường ác, sanh về ba đường lành thì đúng. Nếu suy nghĩ cho kỹ, sanh về những cảnh lành cũng quí báu vô cùng rồi vậy.
Khi hộ niệm cho một người mà ra đi xong có tướng lành hiện ra, mềm mại tươi hồng, thật là một điều mừng vui lắm rồi chư vị ơi!… Tại sao vậy? Vì dù sao đi nữa, cũng giúp cho người đó vượt qua ba đường ác. Xin lấy chính kinh nghiệm của mình, chư vị hãy tự xét coi trong quá khứ, kể cả người tu và người không tu, dễ gì tìm ra một người chết đi lưu được tướng lành như vậy? Một vạn người chết đi, tìm đâu ra được một người may mắn. Không may mắn trở lại làm người, thì họ đi về đâu đây? Thương lắm thay!… Có phải người chết bị đọa lạc xuống tam ác đạo địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh quá nhiều, quá nhiều mà con người không hay.
Phật cảnh cáo cho chúng ta biết rằng, nhân thân nan đắc. Khi gặp được Pháp Hộ-Niệm này rồi mới thấy được người vượt thoát tam ác đạo, mới gặp được hiện tượng vãng sanh. Cơ duyên này thực sự làm cho chúng ta từng phút từng phút tỉnh ngộ, ngộ ra con đường nào phải đi, ngộ ra đường nào phải tránh, ngộ ra những gì phải làm. Xin hãy ngộ liền đi, nếu không ngộ, đành phải chịu nạn vậy.
Đừng nên nghĩ rằng, lâu lâu tới chùa lạy Phật mấy cái là tu nhé. Đừng tưởng rằng thường tới đạo tràng làm công quả là tu nhé. Bòn chút phước thì có, chứ tu không phải là như vậy đâu. Một chút phước tạo được trong đời này so ra chẳng khác gì một viên cát trắng bên cạnh khối nghiệp chướng đen kịt lớn như núi Tu-Di. Hỏi thử, với phước báu tu trong đời này làm sao chan hòa nghiệp chướng được đây?…
Nói vậy, không phải Diệu Âm bài bác việc tu phước đâu, mà muốn nói đến sự thể hiện cái tâm thật sự thiện lành phúc hậu của mình mới là điều đáng quí. Đi ra chợ mua bó rau muống, xin đừng lựa lên lựa xuống mà làm đau lòng người bán: Tâm tu phước đấy. Hãy bốc đại một nắm đậu ve đi, nếu gặp phải vài cái đậu hư có mất mác là bao mà tính toán quá vậy: Tâm bố thí đấy. Lên xe buýt tranh giành chi chỗ ngồi tốt, hãy nhường cho các cụ già đi: Tâm thiện lành đấy, v.v…
Thực ra, nếu có cái tâm thiện lành muốn tu phước, thì có hàng vạn dịp cho chúng ta làm phước. Làm phước mà biết quên đi mới thực sự là phước lành vậy.
Niệm Phật tạo phước đức vô lượng. Có phước đức, niềm tin vững, cầu vãng sanh tha thiết là cơ hội một đời thành đạo. Quý hóa lắm thay. Mong chư vị cố gắng đi cho tới Tây-Phương Cực-Lạc để thành đạo, đừng để lọt lại mà oan uổng cả một đời tu hành.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.