Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 134)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Chúng ta đang nói về câu:
Pháp môn nào của Phật cũng vi diệu cả, nhưng xét về sự thành tựu thì có khác nhau.
Nên nhớ, vì pháp môn nào của Phật để lại cũng vi diệu, nên chúng ta không được quyền coi thường bất cứ một pháp môn nào của Phật. Tất cả pháp môn đều nhằm mục đích cứu độ chúng sanh, nhưng thực hành một pháp môn để được thành tựu thì có sự khác nhau, có khó hay dễ, có vững vàng hay phiêu phỏng… Sở dĩ như vậy là do căn cơ tiếp thu của chúng sanh có sự khác nhau. Tất cả pháp Phật đều bình đẳng, không pháp nào cao, pháp nào thấp, nhưng căn cơ của chúng sanh thì có thấp có cao. Tu hành phải hợp với căn cơ mới có thể sanh ra diệu dụng. Chính vì thế, Phật dạy muốn được thành tựu, phải biết tuyển trạch pháp môn tương xứng mới là người giác ngộ. Vấn đề này thực sự vô cùng quan trọng đối với hàng hạ căn như chúng ta. Đối với hàng thượng căn, thượng trí thì vấn đề này không còn quá quan trọng nữa, vì các Ngài có thể tu hành bất cứ pháp môn nào cũng có thể được thành tựu. Nhưng đối với hàng phàm phu như chúng ta mà gặp đâu tu đó, thì vạn ức người tu hành khó tìm ra một người đắc đạo, sự thành tựu trở thành xa vời, vô thực. Tu pháp Phật mà sau cùng bị thất bại hoàn toàn, thì vô tình làm oan cho ba đời chư Phật vậy.
Chính vì thế, khi nghe đến câu, y kinh giảng nghĩa thì oan cho ba đời chư Phật, làm chúng ta cảm thấy xót xa lắm chư vị ơi! Tu hành thì phải y theo kinh điển của Phật mà giảng giải, y theo kinh Phật mà hành sự, chứ tại sao lại y theo kinh Phật mà oan cho ba đời chư Phật? Thật ra, câu này có ý nghĩa là người tu hành không chịu suy xét thực chất về căn cơ của mình, không chịu tuyển trạch pháp môn thích hợp căn cơ để tu tập, làm cho suốt đời tu hành theo pháp môn của Phật, đúng chánh Pháp, nhưng sau cùng bị thất bại ê chề, làm cho chư Phật đành chịu hàm oan.
Biết được như vậy, chúng ta mới hiểu lý do tại sao mỗi một thời kỳ, mỗi một xứ sở, có chư Tổ đề xuất ra một pháp môn khác nhau cho chúng sanh tu tập. Các Ngài có thể là Phật, Bồ-Tát tái lai mà chúng ta không hay. Các Ngài không bao giờ tự lộ ra danh phận, mà chỉ tận sức giảng giải chánh pháp đặc biệt nào đó thực sự ứng hợp với căn tánh của chúng sanh trong địa hạt đó, vào giai đoạn đó. Các Ngài nói mạnh, nói rõ, hầu có người ngộ ra thực hiện để được thành tựu. Qua một giai đoạn khác, căn cơ của chúng sanh lại biến chuyển khác, sẽ có các Vị khác thị hiện xuống hướng dẫn một pháp tương ứng khác cho chúng sanh tu tập. Cách độ sanh của các Ngài là như vậy.
Khi nghiên cứu suốt qua dòng lịch sử của Phật giáo, chư vị có thể thấy rõ ràng việc này. Mỗi một thời kỳ chư Tổ tuyên dương một pháp môn khác nhau. Nhiều khi trong một thời kỳ, nhưng ở mỗi một vùng khác nhau, tùy theo bản tính riêng, văn hóa riêng, trình độ riêng của đại chúng lại có một pháp thịnh hành khác. Muốn cứu độ được chúng sanh phải tùy căn tùy cơ mới cứu được. Thật là một sự ứng dụng tế vi đầy trí huệ của chư Phật, Bồ-Tát, chứ không phải là chuyện đơn giản đâu.
Vấn đề tuyển trạch pháp môn khế hợp với căn cơ của chính mình, nhất là đối với hàng phàm phu thấp kém như chúng ta vô cùng quan trọng. Nhưng xin hỏi, làm sao mình có thể tuyển chọn một pháp môn thích đáng đây? Với 84.000 pháp môn, vô lượng pháp môn, chư vị sẽ chọn pháp môn nào cho chính xác? Chư vị nào có khả năng đọc tụng tất cả pháp môn, rồi tự chọn ra một pháp thích ứng không? Nếu thực sự làm được thì xin vỗ tay hoan hô, còn nếu làm không được thì sao? Nếu chọn sai thì đành phải ngậm đắng nuốt cay phải không!… Chọn kinh Phật, tu pháp Phật mà phải chịu ngậm đắng nuốt cay thành ra Phật phải chịu hàm oan là vì vậy. Y Kinh giảng nghĩa tam thế Phật oan là điều thực sự đấy.
Vậy thì xin chư vị đừng nên tự mình chọn lựa, mà hãy nhờ Phật chọn cho mình đi nhé. Phật dạy, thời mạt pháp chúng sanh hãy nương theo Pháp Niệm Phật để được thành tựu. Phật đã chọn cho chúng ta Pháp Niệm Phật, chúng ta hãy thành tâm nghe lời Phật dạy, y giáo phụng hành mà niệm Phật, thì chư vị sẽ có cơ hội thành tựu trong một đời này.
Hãy nhìn qua nhìn lại ngay trong chúng ta đây, nhiều người đã có bà con, thân bằng quyến thuộc, nhờ niệm Phật hộ niệm mà ra đi có tướng vãng sanh tốt đẹp rồi phải không? Diệu Âm rất hân hoan và tán thán chư vị đã chọn ngay một pháp môn rất cụ thể, rất thù thắng để hành trì và kịp thời cứu người trong gia đình, cứu thân bằng quyến thuộc của mình vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Nếu như lúc đó mà chư vị còn ỡm ờ, còn so đi tính lại, còn đứng bên ngoài để xem qua xem lại coi thử Pháp Niệm Phật có thật sự vi diệu không? Có hợp với khoa học không?… Có đáng tin tưởng không?… Thì có lẽ những người thân đó đã đi xuống tam ác đạo rồi, còn cách nào để cứu vãn nữa đây?!…
Có người lại hỏi, tại sao lại nói người thân của tôi bị đọa vào tam ác đạo vậy? Xin thưa rằng, vì chính Phật dạy: “Nhơn thân nan đắc”. Nghĩa là, một người khi xả bỏ báo thân này rất khó được sinh lại làm người. Hãy suy nghĩ thử coi, khi chưa biết qua Pháp Niệm Phật Hộ-Niệm Vãng Sanh, những người thân yêu của chúng ta chết đi đã lưu lại thân tướng như thế nào? Có phải hầu như tất cả đều bị cứng đơ, sắc tướng buồn thảm lắm phải không? Đây chính là triệu chứng báo cho chúng ta biết những người đó đời sau không thể trở lại làm người đó. Cảnh giới người là bờ mé của tam ác đạo, không lấy lại được thân người thì đi đâu?!…
Thời này con người thường chạy theo khoa học, kỹ thuật… cho đây là văn minh tiến bộ. Có người đam mê tư tưởng, học thuật, triết lý cho đó là tinh thần sâu sắc. Nhưng một khi chết đi, thân xác liền cứng đơ, sắc tướng ảm đạm thì còn gì là sâu sắc nữa?!… Phật dạy, bị hiện tượng này khó tránh khỏi thân phận bàng sanh súc vật trong đời tương lai. Nếu không phải là loài gà, vịt, chó, mèo… thì không ai dám bảo đảm rằng họ sẽ thoát khỏi cảnh ngạ quỷ đói khát, lang thang vất vơ vất vưởng từ đời này qua đời khác. Nếu không nhằm vào những cảnh này, thì còn một con đường nữa là địa ngục… Ôi!… Rơi vào địa ngục thì tệ hại nhất, đau khổ vô cùng! Chư vị có hiểu thấu nỗi đau khổ này không? Biết được Pháp Môn Hộ-Niệm, chúng ta có thể biết được một người thoát khỏi ba cảnh ác đạo hay không một cách dễ dàng, cụ thể lắm vậy.
Một sự chậm trễ, một sự ỡm ờ, một sự phân vân do dự… đưa người thân mình vào cảnh khổ nạn. Một sự tỉnh thức, giác ngộ kịp thời biết ứng dụng Pháp Hộ-Niệm có thể giúp cho cha mình 10 niệm tất sanh, giúp cho mẹ mình 10 niệm tất sanh, giúp cho anh chị của mình đang nằm đó niệm được 10 câu A-Di-Đà Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc mà được đi thẳng về đất Phật thành tựu đạo quả. Đã gặp được pháp đại cứu tinh rồi, chúng ta còn chờ đợi gì nữa mà không chịu quyết định dứt khoát để đi thành đạo, hỡi chư vị? Nếu nghe theo một người phàm phu nào đó thì ta cần phải cẩn thận xét suy, cần nghĩ lên nghĩ xuống để tìm hiểu xem họ có phải là thiện tri thức hay không? Lời nói của họ có đáng tin cậy hay không? Có đúng với chánh pháp hay không? Có dụng ý gì lừa gạt ta hay không? Có lợi dụng ta để làm điều gì lợi lạc cho cá nhân họ không?… Còn đây là lời Phật dạy, một đấng đại giác ngộ trên hoàn vũ, là Đức Thiên Nhân Sư Phật Thế-Tôn mà ta cứ ỡm ờ không dám nghe lời là sao? Thiện căn, phước đức tu hành trong nhiều đời nhiều kiếp để quên ở đâu rồi, mà không biết thâu lượm lại để tin cho chắc lời Phật dạy, hầu thực hiện sự giải thoát trong đời này, vừa cứu lấy mình vừa cứu giúp lẫn nhau.
Vậy thì, là người Phật tử, chúng ta không được quyền nghi ngờ lời Phật dạy nhé chư vị. Nhất định không được nghi ngờ. Nghi ngờ lời Phật dạy thì mất phần giải thoát đã đành, mà tương lai còn bị đọa lạc khổ đau vô lượng kiếp đấy. Xin đừng đánh giá quá nhẹ sự đọa lạc nhiều đời nhiều kiếp, khổ đau bất tận trong tam ác đạo mà ngồi đây lý luận quanh co, nghi nghi ngờ ngờ nữa nhé. Chính vì thế, trong Pháp Hộ-Niệm niềm tin là yếu tố vô cùng quan trọng. Tất cả mọi pháp môn, muốn được thành tựu đều đòi hỏi đến căn cơ phải cao siêu, trí huệ phải khai mở, công phu tu tập phải vô cùng khó khăn… trong khi Pháp Niệm Phật điểm chính yếu đều dồn vào niềm tin thanh tịnh này để được giải thoát.
Lời Phật dạy chúng ta phải tin. Hãy tin liền đi. “Tín vi đạo nguyên công đức mẫu” đấy, niềm tin là mẹ sinh ra công đức, chư vị lấy công đức này để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Niềm tin này quý giá vô cùng, không tốn một đô-la, tại sao người thế gian không chịu tin lời Phật để kịp thời vãng sanh thành đạo vậy? Oan uổng thay!…
Xin thưa chư vị, niềm tin có công đức quá lớn mà không tốn tiền mua, nên Diệu Âm luôn luôn động viên tích cực, thường xuyên nhắc nhở nhau tin tưởng. Chư vị hãy mau mau tin tưởng liền đi. Chư vị tin, chư vị không tốn một đồng mà có thể được giải thoát, Diệu Âm khuyên nhắc cũng không tốn một đồng nhưng nhờ lời này cũng nhắc nhở cho chính Diệu Âm tin tưởng hơn. Chúng ta huề nhau vì không ai thua lỗ, nhưng chúng ta được lợi lạc sâu đậm vì có cơ hội thành tựu trong một đời này, đúng không chư vị? Vì sự lợi lạc quá lớn này nên Diệu Âm luôn luôn mạnh dạn và sốt sắng khuyên nhau niệm Phật. Xin tất cả chư vị mau mau tin lời Phật dạy để kịp thời giải thoát. Còn không tin thì đành tùy duyên. Đời này ai tu nấy đắc. Tin tưởng thì cùng nhau hưởng sự thành tựu, người nào không tin tưởng thì rước lấy thất bại đắng cay vậy thôi.
Khi khởi đầu việc khuyên nhau niệm Phật, thì ba thứ tịnh-phước Phật dạy trong kinh Quán Vô-Lượng-Thọ đã làm cái nền căn bản cho Diệu Âm đi. Diệu Âm khởi tâm làm việc đạo từ 11 điều thuộc về ba loại tịnh-phước này. Điều đầu tiên là: “Hiếu Dưỡng Phụ Mẫu”, và điều cuối cùng là: “Khuyến Tấn Hành Giả”. Diệu Âm lúc đó chính mình thực sự chưa làm trọn vẹn 11 điều này, nhưng vì quá sốt sắng với đường đạo, đã vội vã lấy ngay câu đầu và câu cuối kết hợp lại mà hành sự.
Điều đầu tiên là “Hiếu dưỡng phụ mẫu”, hiếu thảo và phụng dưỡng cha mẹ. Diệu Âm thấy cha mẹ mình tiếng là có tu hành, nhưng xét kỹ thì rõ ràng cha mẹ mình có đầy đủ: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Diệu Âm đoán chắc rằng sau cùng cha mẹ mình khó thoát khỏi 3 cảnh ác đạo. “Khuyến Tấn Hành Giả” là khuyên người tu hành. Nhưng biết ai nghe theo mình để khuyên đây? Mình chưa có đức độ, phước báu cũng không có. Diệu Âm mới nghĩ ngay đến chuyện lấy cha mẹ mình làm mục tiêu để khuyến tấn. Nhưng khuyến tấn bằng cách nào đây? Lúc mới khởi sự thật sự Diệu Âm có tâm trạng rối rắm như tơ vò. Điện thoại thì bị mắn chưởi, trực tiếp gặp thì bị chê bai… Đến khi gặp được những lời khai thị của Ngài Ấn Quang đã làm cho Diệu Âm tỉnh ngộ ra những gì mình cần phải làm. Và, chính những “Lá Thư Tịnh-Độ” của Tổ Ấn Quang đã gợi ý cho Diệu Âm quyết định viết những lời thư “Khuyên Người Niệm Phật” vậy.
Đầu tiên chỉ là những lá thư riêng lẻ giống như tờ giấy loại, không có gì đặc biệt, cũng không bị tốn kém gì. Cha mình càng chửi Diệu Âm càng viết dài hơn. Cha mình càng la rầy Diệu Âm càng tha thiết phân bày rõ hơn… Thực sự khi nghĩ tới sự đọa lạc gần kề của cha mẹ mà Diệu Âm đã viết ra những lời thư khuyên người niệm Phật nhiều lúc cũng phải nghẹn ngào rơi lệ!… Diệu Âm khuyên mãi, khuyên mãi… Bằng mọi cách tiếp tục khuyên. Khuyên từ lúc chưa tin cho đến tin. Tin rồi thì khuyên phải tin cho sâu. Tin sâu rồi thì khuyên phải tu cho đúng… Thật sự muốn cứu được một người phải kiên trì và chịu khó nhiều lắm chư vị ơi!… Không phải đơn giản đâu.
Không biết ở đây tất cả chư vị đã tin tưởng vững chưa? Nếu tin tưởng vững thì xin chư vị hãy lo tinh tấn niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh-Độ nhé. Được vậy thì chư Tổ sẽ khen chư vị, chư Bồ-Tát sẽ hộ trì cho chư vị, chư Thiên-Long Hộ-Pháp sẽ bảo vệ cho hành giả niệm Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Còn nếu ai không tin, thì chư Phật, chư Bồ-Tát, chư Thiên-Long Hộ-Pháp không thể gia trì và bảo vệ cho những người làm sai chánh pháp đâu. Nghiệp chướng lớn như núi Tu-Di, nhân duyên quả báo tự mỗi người phải lo liệu lấy.
“Khuyến Tấn Hành Giả” là khuyên người niệm Phật. Chư vị hãy mau mau đi tới, nhất định phải đi thẳng về cõi Phật, đừng thoái lui. Tất cả chúng ta đều được quyền làm như vậy, vì tất cả mỗi người chúng ta đều có Chơn-Tâm Tự-Tánh là một Đức Như Lai. Người nào khơi dậy được cái tánh đức Như-Lai, sống bằng cái tánh đức Như-Lai này, thì đang ngồi đây nhưng cái “Thân Nghiệp Báo” của chư vị đã biến thành “Thân Nguyện Lực” rồi. Ngày nào còn sống chư vị còn giúp đỡ người hữu duyên niệm Phật cầu về Tịnh-Độ. Ngày nào mãn báo thân chư vị vãng sanh thành tựu đạo quả, nhận lấy cái thân của Bồ-Tát trong thế giới Pháp Tánh để bất thoái thành Phật. Vui sướng lắm phải không chư vị?
Cho nên, chỉ có giác ngộ mới thành Phật, còn mê muội thì tiếp tục đời đời kiếp kiếp phàm phu vẫn là phàm phu. Luận về Tâm, thì xin đừng bao giờ đem cái thân thịt vô thường này cùng với những thứ vật chất ô trược của thế gian ra mà làm căn cứ, mà ứng dụng làm cho oan uổng cả một đời tu hành. Nói về cái thân thịt này là ta nói về nghiệp báo, nói về cái Tâm này là ta nói về Giác hay Mê. Giác ngộ nhất định có thể chuyển phàm thành Thánh. Mê muội thì đời đời kiếp vẫn là phàm phu sanh tử khổ nạn. Chính Diệu Âm này ngay lần đầu trong đời gặp được một người được hộ niệm vãng sanh mà giật mình tỉnh ngộ. Một sự tỉnh ngộ sâu sắc đến nỗi có cảm giác ngỡ ngàng cơ hồ như muốn chuyển biến từng tế bào trong người, làm rung động cả tâm hồn. Hôm nay Diệu Âm nhớ đến trạng thái này mà mong ước tất cả mọi người hãy mau mau giác ngộ, kịp thời giác ngộ, để có cơ hội được rung động tâm hồn trước cảnh vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc vi diệu bất khả tư nghì. Đừng nên mê mê hồ hồ nữa mà tiếp tục tạo thêm oán nạn để cho oan gia trái chủ đánh phá trả thù, để cho nghiệp chướng báo hại thì tội nghiệp cho cái thân xác này, tội nghiệp cho cái huệ mạng này, tương lai tiếp tục vùi dập trong những cảnh tối tăm khổ nạn!…
Nam Mô A-Di-Đà Phật.