Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 107)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Ngày hôm qua chúng ta bàn về vấn đề tự tại trước bệnh khổ, hôm nay chúng ta bàn về tự tại với sống chết. Nghe nói mình tự tại với sống chết, chư vị có thấy ngon lành không? Xin mở trang 44, câu 8: “Vấn đề tự tại trước sống chết”.
Tự tại trước bệnh khổ và tự tại trước sống chết là hai vấn đề quan trọng. Đưa ra vấn đề này không phải lý thuyết suông đâu, mà chúng ta phải cố gắng thực tập cho được đấy. Hôm qua chúng ta nhắc đến sự thực tập một tinh thần tự tại trước bệnh khổ. Khi đi hộ niệm, nếu thấy một người có tinh thần tự tại trước bệnh khổ, mình có thể đoán được cái xác suất vãng sanh của họ lớn lắm, còn khi gặp một người lo âu trước cơn bệnh, thì biết rằng cái xác suất vãng sanh của họ rất mập mờ, rất khó khăn. Từ chỗ tự tại trước bệnh khổ dẫn đến sự tự tại trước sống chết. Bây giờ xin bàn đến sự tự tại trước sống chết như thế nào nhé.
(a): Ta niệm Phật rồi đứng ra đi, biểu diễn sự vãng sanh như chư Tổ Sư.
Đúng không chư vị? – (Sai). Khó lắm đấy! Đừng thấy có những người đứng ra đi, ngồi ra đi, rồi nghĩ rằng mình cũng đứng ra đi ngồi ra đi một cách dễ dàng. Không đơn giản đâu. Nghiệp chướng của mỗi chúng ta tự mỗi người phải ý thức lấy. Từ trong nhiều đời nhiều kiếp cho đến đời này, chúng ta đã quá mê mờ tạo nên nghiệp chướng lớn như núi rồi, nếu sau cùng nghiệp chướng ứng hiện ra thì không đơn giản đâu nhé. Chính vì nghiệp chướng ứng hiện quá bất ngờ làm chúng ta ngỡ ngàng, trở tay không kịp, nên phải cẩn thận. Muốn cho nghiệp chướng nhẹ đi một chút, thường thường chư Tổ dạy chúng ta phát tâm tu phước. Hầu hết các Ngài đều lấy sự tu phước làm trợ hạnh. Phước tăng thì nghiệp giảm. Nói chung là phước báu với nghiệp tội chan hòa với nhau. Hễ phước lớn thì thường thường chúng ta hưởng phước đó mà lúc ra đi được phần tự tại hơn. Còn phước yếu thì nghiệp nặng, nghiệp nặng thì lúc ra đi khó bề tự tại, chịu nhiều cảnh khó khổ, có thể chính chúng ta khó vượt qua nổi cái ách nạn của nghiệp chướng.
Cho nên, vấn đề đứng ra đi, biểu diễn sự tự tại vãng sanh thì chư Tổ có thể làm được, những người đại thiện căn, đại phước báu có thể làm được, còn chúng ta là hàng phàm phu tội nặng, phước mỏng, thì phải giữ hạnh khiêm cung hiền lành để bòn mót phước báu mới tốt. Vậy thì, hàng phàm phu mà nghĩ rằng mình sẽ đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, ra đi tự tại như chư Tổ Sư thì trở thành một đại vọng tưởng, nhất định không tốt!… Chư vị hãy để ý cho, những vị thực sự đạt được cảnh giới này không bao giờ các Ngài tự khoe ra trước đâu.
(b): Ta sẽ không đau, không bệnh, chắc chắn biết rõ ngày giờ vãng sanh.
Đúng hay sai? Đúng không? Không ai trả lời hết!… Không trả lời thì hay đấy. Nếu suy nghĩ thật kỹ thì câu này sai, vì chúng ta đang nói đến hàng phàm phu hạ căn. Hàng phàm phu không dễ gì mà biết trước ngày giờ ra đi đâu. Hơn nữa, xin nhớ cho, biết trước ngày giờ ra đi chưa chắc gì được vãng sanh. Không đau, không bệnh, an nhàn ra đi chưa chắc gì được vãng sanh. Ra đi để lại xá lợi chưa chắc gì là được vãng sanh. Ra đi có mùi hương bay thơm thoang thoảng chưa chắc gì được vãng sanh… Nên nhớ cho kỹ điều này. Ở phần trước chúng ta đã nói vãng sanh là gì, yếu tố nào đưa chúng ta vãng sanh, còn những hiện tượng như không đau bệnh, biết ngày giờ ra đi không phải là điều kiện bảo đảm cho sự vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Như vậy những hiện tượng này nói lên điều gì? Tướng lành của người có phước. Không đau không bệnh là người có phước, biết được ngày giờ ra đi là người có phước. Nếu những người có phước báu này mà quyết tâm niệm Phật cầu nguyện vãng sanh, thực hiện được Tín-Nguyện-Hạnh đến giây phút cuối cùng, lại biết được ngày giờ ra đi nữa, thì sự vãng sanh mới càng thêm chắc chắn. Chính vì thế, thường thường chúng ta chỉ chú tâm khuyên người tin tưởng, chí thành niệm Phật, tha thiết nguyện cầu vãng sanh để họ được vãng sanh. Còn những điều như biết trước ngày giờ ra đi, không đau, không bệnh… liên quan nhiều đến phước báu. Chắc chắn những người tạo phước nhiều đó nếu biết niệm Phật cầu vãng sanh, thì sự vãng sanh thường dễ dàng hơn người thiếu phước, tại vì khi ra đi không bị đau bệnh, không bị mê man bất tỉnh, không có nhiều chướng ngại cản ngăn, nên con đường vãng sanh của họ an toàn hơn, thuận duyên hơn, thoải mái hơn.
(c): Khi ra đi chắc chắn ta sẽ tỉnh táo, mỉm cười, chào biệt mọi người rồi ngồi mà vãng sanh.
Đúng hay sai? – (Sai). Những câu này ở đây trả lời “Sai” là nhắn lời khuyến cáo những người hạ căn phàm phu tu hành thì ít, mà thường khởi vọng tưởng cầu mong danh vọng tiếng tăm nhiều quá, điều này thật sự không tốt!… Một người thật sự chân chánh tu hành luôn luôn có tâm hồn khiêm hạ, thiết tha chân thật cầu nguyện vãng sanh là đầy đủ, còn chuyện tiếng tăm của thế gian chú ý tới làm chi.
Trước đây có một người nói với Diệu Âm cái ước nguyện của mình như vầy:
– Tôi muốn khi ra đi phải để lại một viên xá lợi thực trong suốt mới được. Anh nghĩ vậy có tốt không?
Diệu Âm trả lời:
– Thật sự chuyện này tôi hoàn toàn không cần tới. Tại sao mình phải cầu mong để lại một viên xá lợi thật đẹp để làm chi? Tại sao không cầu nguyện vãng sanh, mà lại cầu có xá lợi? Những lời khen tặng của thế gian có giúp được gì cho đường vãng sanh của mình không?
Xin kể cho chư vị nghe một câu chuyện khác khá lý thú giữa một vị Sư Phụ và người đệ tử trong Thiền môn. Người đệ tử đi dự một đám tang, khi hỏa thiêu xong thấy có lưu lại xá lợi nên quá mừng vui, vội vã chạy về khoe với Sư Phụ. Vị Sư Phụ nghe xong, liền cầm cái rìu xăm xăm đi thẳng lên bàn thờ Phật. Người đệ tử thấy lạ lùng mới hỏi:
– Thưa Sư Phụ, Sư Phụ làm gì vậy?
– Ta lên lấy tượng Phật chẻ ra để thu xá lợi. Một người thế gian chết mà còn có xá lợi thì chắc chắn phải có vô số xá lợi trong tượng Phật này.
Người để tử nghe đến đó bừng tỉnh cơn mê, liền ngộ đạo!… Chư vị nghe xong có ngộ gì không? Trên thế gian này có người ngộ đạo nhanh quá nhỉ!… Ý nghĩa câu chuyện này là người Sư Phụ trách mắng người đệ tử rằng, ta dạy cho con tu hành thành đạo, thành Phật, chứ ta có dạy cho con đi cầu tìm xá lợi đâu, mà vừa thấy xá lợi thì mừng vui khấp khểnh vậy?!…
Vị Sư Phụ quán xét căn cơ của người đệ tử, thấy còn chỗ vướng chấp nên đã làm những động tác đó để thức tỉnh người đệ tử mà thôi, chứ không phải Ngài muốn bổ tượng Phật ra đâu nhé. Chúng ta không đủ căn cơ tu tập Thiền định để tự chứng đắc, nhưng cũng nên lấy lời răn này mà xa lìa những sự đam mê hão huyền dẫn đến mất phần vãng sanh.
Vì thế, nghĩ rằng “Khi ra đi chắc chắn ta sẽ tỉnh táo”, coi chừng vướng phải cái tâm thượng mạn. Nên nhớ kỹ rằng, tu hành mà khởi tâm thượng mạn thường là điều đại tối kỵ trên đường tu học. Chư Tổ luôn luôn cảnh cáo điều này, nhất định không được khởi tâm thượng mạn. Khởi lên một tâm thượng mạn là cơ hội thuận lợi nhất, dễ dàng nhất cho oán thân trái chủ cài bẫy mà sau cùng vướng nạn. Mong chư vị chú tâm để ý đến vấn đề này. Khi nói đến phần “Khế-Lý Khế-Cơ” chúng ta sẽ giảng giải thấm thía hơn.
(d): Tự tại với sống chết là nhất định không sợ chết. Xác thân vô thường hãy trả về cho vô thường, ngày mãn báo thân ta vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Đối với hàng phu như chúng ta, tự tại trước sống chết không thể so sánh bằng với chư thượng căn thượng trí được đâu. Có nghĩa là, chúng ta không dễ gì đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh, chắc chắn biết trước ngày giờ vãng sanh, ra đi không đau không bệnh, tỉnh táo biểu diễn sự vãng sanh theo ý muốn, muốn đi thì đi, muốn ở thì ở như chư vị Bồ-Tát đâu, mà tự tại trước sống chết đối với chúng ta gần gũi nhất là ta không sợ chết. Đối với cái chết người ta sợ, ta không sợ. Không sợ chết thì trước sự xả bỏ báo thân, tâm hồn ta sẽ an tịnh, bình tĩnh thực hiện đầy đủ Tín-Nguyện-Hạnh để vãng sanh.
Hôm trước chúng ta có nói qua điều này, một chúng sanh, một vị Bồ-Tát, ngay cả một vị Phật trong một thời kỳ chỉ có một báo thân duy nhất. Như vậy một người muốn lấy một báo thân khác thì nhất định phải xả bỏ cái báo thân này. Cái báo thân chúng ta đang sống đây Phật gọi là Thân-Tiền-Ấm, sau khi chết ta đầu thai vào một cái thân khác, gọi là Thân-Hậu-Ấm. Như vậy Thân-Hậu-Ấm chính là một cái báo thân khác của chúng ta trong đời sau. Còn Thân-Trung-Ấm chính là trạng thái một linh hồn còn đang lang thang vất vưởng, chưa thọ nhận một cái báo thân nào. Thông thường người thế gian gọi là “Ma”. Cảnh giới này thật không tốt, đừng lủi vào đây làm chi.
Như vậy, ta đã biết đường vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thì ta không được sanh vào loài súc sanh, ngạ-quỷ, địa ngục nữa, cũng đừng nên tham luyến đến cảnh trời, cảnh tiên hay sanh lại làm người làm chi, hãy sanh về thẳng về Tây-Phương Cực-Lạc thọ lấy cái báo thân Bồ-Tát bất thoái chuyển ở nơi đó, gọi là A-Duy Việt-Trí Bồ-Tát. Xin thưa quý chư vị, A-Duy Việt-Trí Bồ-Tát có báo thân “Kim Cang Bất Hoại”, cái thân không còn sanh không còn tử nữa, gọi là “Thanh Hư Chi Thân, Vô Cực Chi Thể”, trong kinh Vô lượng thọ nói rõ ràng điều này. Thanh-Hư Chi Thân là cái thân trong sạch bao trùm pháp giới, Vô-Cực Chi Thể là vô lượng thời gian không còn chết sống nữa. Sắc thân rất đẹp, vàng óng ánh như Phật. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ Phật nói nếu cái thân của Phật và thân của chúng sanh trên cõi Cực-Lạc mà có sự khác biệt nhau, nghĩa là có xấu có tốt, có cao có thấp, có trắng có đen khác nhau thì Phật thề không thành Phật. Cho nên thân Phật đẹp như thế nào, thì sanh về nơi đó chúng ta cũng có cái thân đẹp như Phật, tuyệt vời vô cùng.
Như vậy, tự tại trước sống chết có nghĩa là ta không sợ chết, chứ chưa chắc gì chính ta không đau bệnh, hay biết trước ngày giờ ra đi. Tất cả những điều này nếu có thì tốt vì có thêm thoại tướng lành, chứ không phải là điều kiện tất yếu phải có mới được vãng sanh, mà điều kiện chính là tinh thần tự tại, nghĩa là nếu lúc đó mà còn luyến tiếc cái thân xác này tức là còn sợ chết, còn sợ bệnh. Còn sợ bệnh thì không còn tự tại với bệnh khổ. Còn sợ chết thì không còn tự tại trước cảnh sống chết. Không tự tại thì ta bị nạn. Mong chư vị nhớ thật kỹ vấn đề này.
Vậy thì, đến ngày xác thân vô thường phải trả về cho vô thường thì ta cứ trả. Mãn báo thân trần tục này rồi thì ta vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc thôi. Đó chính là tinh thần tự tại đúng mức vậy.
(e): Bị bệnh lâu quá chờ hoài mà chưa được vãng sanh, thôi thì ngừng ăn để đi sớm, không còn sợ chết nữa.
Đúng hay sai? – (Sai). Làm như vậy có phải tự tại không? Không sợ chết, không cần ăn để chết sớm nữa, tự tại lắm phải không? Không đâu! Đó là tự tử chứ không phải tự tại.
Có lẽ cũng có người đi hộ niệm, nhưng do nghiên cứu không đúng pháp đã làm điều lạ lùng này, nghĩ rằng còn ăn là còn nuôi cái thân này, còn uống thuốc là còn muốn hết bệnh, tức là còn tham sống sợ chết. Xin thưa với chư vị, Llm đạo mà cực đoan, xúi người tự tử, không đúng chánh pháp đâu. Sự thật, chính mình không ăn thì niệm Phật không nổi, vậy mà lại khuyên người bệnh không ăn để vãng sanh sao? Xin đừng sơ suất làm điều sai lầm!…
Cho nên, không sợ chết không phải là không ăn để chết. Người không muốn sống là thần kinh đã có vấn đề! Phật dạy, người học Phật không được quyền tự tử. Nhưng chúng ta cũng nên biết rằng, cái thân nghiệp báo này nó có định số rồi, ngày nào còn sống ta vẫn cứ sống bình thường, ngày nào mãn phần ta vui vẻ ra đi, đừng lo đừng sợ. Có tinh thần này thì tự nhiên ta được tự tại trước tử sanh rồi vậy.
(f): Tự tại là nếu bị bệnh khổ dài lâu thì ta tranh thủ từng giờ niệm Phật cầu vãng sanh, ngày nào ra đi khỏi cần lo tới tại vì thân mạng đã có số phận rồi.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Nếu thực sự là người niệm Phật cầu vãng sanh, thì khi bị bệnh khổ dài lâu không thể khiến cho ta thoái chuyển. Hiểu thấu được pháp Phật, thì đây chỉ là vấn đề nhân quả của chính mình. Nghiệp nhân mình tạo ra, nay gặp duyên nó ứng lên, mình phải chấp nhận trả quả. Người có phước báu lớn, nghiệp khổ ít, thì ngày cuối cùng ra đi thường nhờ phước báu mà được thoải mái hơn người kém phước. Người nào thấy mình bị nhiều nghiệp khổ đeo đẳng dài lâu, thì biết rằng nhiều đời nhiều kiếp vụng tu phước báu. Hiểu được lý nhân quả này, thì hãy nên ăn ở hiền lành, khiêm cung, chí thành niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, lấy sự khổ nạn này làm động cơ thúc dục, quyết lòng vãng sanh sớm để trở về Chơn-Tâm thành đạo. Càng khổ ta càng niệm Phật. Càng niệm Phật tự nhiên ta sẽ có niềm an vui cực lạc. Niệm Phật chuyển bệnh khổ thành cơ hội tiêu nghiệp, chuyển cảnh khổ thành niềm an vui vãng sanh, chứ đừng bám víu vào đây nữa mà chính mình chịu khổ nạn nhiều hơn.
Rõ ràng Pháp Hộ-Niệm đã dạy chúng ta một triết lý sống tuyệt vời – Quá khứ đã qua, ta đã làm nhiều điều sai lắm rồi thì bám vào đó làm chi nữa. Tương lai đời sau trong lục đạo có sướng ích gì hơn mà mơ cầu tới. Hiện tại đời này ta hãy tự tại thoải mái trước những gì ta đang có. Lấy cái tâm tự tại này mà ta niệm Phật cầu về Tây-Phương Cực-Lạc thành đạo. Đây là một đạo pháp giải thoát tuyệt vời, vi diệu tối thắng, đã có người thực hiện được rồi, số lượng đến vô lượng vô biên không đếm hết thì còn gì nữa mà phân vân do dự?… Cũng có những người biết sống tự tại với hiện đời, nhưng không biết tương lai đi về đâu, thì đời kiếp sau này vẫn phải mờ mờ mịt mịt theo nghiệp chịu nạn, còn người niệm Phật thì tự tại với hiện tại, nhưng tương lai ta về Tây-Phương Cực-Lạc. Rõ ràng ta đi có đường, về có đích, vô cùng cụ thể. Mong cho chư vị ai ai cũng thành A-Duy-Việt-Trí Bồ-Tát, viên thành Phật Đạo, cứu độ chúng sanh.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.