Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 150)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Hành trình đi về Tây-Phương Cực-Lạc thì niệm Phật là tổng quát, hộ niệm là chi tiết. Mình phải đi cho đến nơi nghe chư vị. Đừng dừng chân giữa đường mà ân hận.
Xin chư vị mở trang 59, dòng cuối cùng, vấn đề 34:
Nhiều vị Tổ Sư khi lâm chung vẫn phải dặn dò hàng đệ tử vây quanh hộ niệm. Tại sao vậy?
Khi đưa ra vấn đề này, chúng ta lại càng thấy hộ niệm càng quan trọng hơn nữa. Xin chư vị đồng tu đừng bao giờ nghĩ rằng mình phàm phu mới cần hộ niệm, còn chư Tổ thì không cần. Chưa đúng lắm đâu, vì nhiều khi chư Tổ còn dặn dò hàng đệ tử hộ niệm cho các Ngài cẩn thận hơn mình đó.
Ngài Huệ-Viễn là Sơ Tổ Tịnh-Độ Tông Trung Hoa. Đời Ngài phải đối diện với một pháp nạn rất lớn của Phật Giáo đương thời. Chính quyền nhà Tấn lúc đó ngăn cấm người xuất gia tu hành. Tất cả các giới tu sĩ phải rời bỏ đạo tràng, bỏ chùa chiền, trở về nhà làm người dân thường, lo lao động làm ăn. Ngài quyết định không chấp nhận sắc luật này, dẫu phải chịu rất nhiều áp lực rất lớn, nhưng Ngài cũng không khuất phục. Ngài quyết lòng cùng những người chí đồng đạo hiệp, rời bỏ xóm làng, đi sâu vào vùng núi rừng ở miền Lô-Sơn Đông-Lâm, kết thành liên xã niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh-Độ. Ngài cùng với chư vị liên hữu, tất cả 123 người, lấy Hổ Khê làm ranh giới, quyết thề không bước qua khỏi Hổ Kiều để gặp xã hội bên ngoài. Ngài chủ trương chuyên tu niệm Phật, dặn dò mọi người quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh, và trợ giúp tích cực cho nhau để một đời này đi thẳng Tây-Phương Cực-Lạc. Kết quả sau cùng tất cả đều được vãng sanh Tịnh-Độ cả. Pháp môn Tịnh-Độ từ đó lưu truyền đến ngày nay.
Đến Tổ thứ hai là Ngài Thiện-Đạo, Tổ rất chú trọng về Pháp Hộ-Niệm. Ngài nói rằng, với Pháp Niệm Phật muôn người tu muôn người chứng. Chính câu nói: “Muôn người tu, muôn người chứng” này của Tổ Sư đã làm cho Diệu Âm cảm thấy nhức đầu trong một thời gian khá lâu. Nhưng rồi sau cùng cũng hóa giải được vấn nạn này một cách thõa đáng. Đó là, chính nhờ Pháp Hộ-Niệm đã trợ duyên cho người niệm Phật, giúp cho hàng hạ căn phàm phu, nghiệp nặng, trí mê vẫn có thể thực hiện được Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ ngay trong giờ phút lâm chung mà được vãng sanh viên mãn. Hạ căn phàm phu, tội chướng sâu nặng mà cũng được vãng sanh, thì hỏi rằng ai mà không được vãng sanh. Đúng là muôn người niệm Phật muôn người vãng sanh vậy. Chỉ có vấn đề là con người có chịu tin tưởng để đi làm Phật hay không?
Xin thưa với chư vị, Pháp Hộ-Niệm vô cùng quý báu. Người phàm phu mà không được hộ niệm, thì triệu người tu hành tìm đâu ra được một vài người thoát nạn. Pháp Hộ-Niệm không chỉ quan trọng đối với hàng phàm phu, mà chính chư Tổ vẫn thường dặn dò hàng đệ tử chuẩn bị hộ niệm cho các Ngài một cách cẩn thận. Không có một vị Tổ Sư Tịnh-Độ nào, trước khi ra đi mà không có hàng ngàn người đến vây quanh hộ niệm cho Ngài. Như vậy:
(a): Có lẽ các Ngài còn sợ chết chăng?
Đúng không chư vị? – (Sai). Một vị Tổ Sư Tịnh-Độ đã quyết lòng đi về Tây-Phương Cực-Lạc, các Ngài hiểu thấu Lý-Sự Tịnh-Độ rồi, thì làm gì có chuyện sợ chết. Các Ngài trông mong từng ngày để vãng sanh thành Phật, thì làm gì lại sợ mất thân xác này. Tổ Ấn-Quang nói rằng, nếu đi được ngày hôm nay thì cứ đi vãng sanh ngay ngày hôm nay, cớ chi phải chờ đến ngày mai. Sống 30 tuổi hay 120 tuổi có ích lợi gì ở thế gian này. Còn ở đây 1 ngày khổ 1 ngày, vui sướng gì đây mà cầu sống lâu.
Chính vì vậy mà tinh thần của các Ngài vững vàng, rất tự tại trước tử sanh. Chư vị ở đây có ai nghĩ rằng mình sẽ được tự tại trước tử sanh không? Nếu được thì hoan nghênh. Nếu không, thì giờ này chúng ta hãy tìm phương cách để được tự tại trước tử sanh nhé.
Xin thưa rằng, người không sợ chết là người tự tại trước tử sanh. Người không sợ bệnh là người tự tại trước bệnh hoạn. Người gặp một chướng nạn không sợ sệt, là người tự tại trước chướng nạn. Còn người sợ sệt thì tay chân run rẫy lập cập! Người sợ ma, vừa nghe nói đến ma thì sợ mất hồn mất vía! Người không sợ ma thì dù có ma hiện trước mặt họ vẫn điềm nhiên. Sự sợ sệt chính là thủ phạm cướp mất sự tự tại.
Nói chung, tâm lực vững vàng thì được tự tại. Không sợ trước một vấn đề gì được gọi là tự tại trước vấn đề đó. Ví dụ, một người tử tù lên đoạn đầu đài mà mỉm cười không sợ hãi, thì người tử tù này tự tại trước cảnh rơi đầu. Giả như lúc đó người tử tù niệm Phật cầu vãng sanh và được vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì gọi là tự tại vãng sanh. Như vậy, tự tại trước tử sanh khác với tự tại vãng sanh. Xin ghi nhớ điểm này.
Vì thế chư Tổ không sợ chết, mà chỉ sợ không được vãng sanh. Chính vì sợ không được vãng sanh, nên các Ngài ngày đêm phải tinh tấn niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ.
(b): Chủ tâm nhắc nhở cho hàng đệ tử tầm quan trọng của Pháp Hộ-Niệm.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Chư Tổ có thể là chư Phật Bồ-Tát thị hiện. Đã thị hiện thì các Ngài có thể thị hiện đủ cách, có lúc vãng sanh ngon lành, có lúc gặp đầy trở ngại. Tất cả có thể đều là biểu pháp, nhằm nhắc nhở cho hàng phàm phu tục tử chúng ta biết rằng, chướng nạn của mỗi người lớn lắm, không chừa một ai, chính ta cũng không dám lơ là việc công phu. Vậy thì chư vị liên hữu đồng tu đừng nghĩ rằng mỗi tuần tới đạo tràng tu một vài buổi là đủ, là đắc, là chứng, là an toàn vãng sanh đâu nhé. Các Ngài làm gương sáng cho sự cẩn thận trong cẩn thận, vững vàng trong vững vàng đó.
Chính vì thế, người nào muốn vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc thì cần phải lo liệu sớm. Ngày ngày phải lo tinh tấn niệm Phật. Phải chân thật huân tu một câu A-Di-Đà Phật cầu vãng sanh. Người nào lo lắng về nghiệp chướng, thì chí thành niệm A-Di-Đà Phật tự nhiên phá tan vô lượng nghiệp chướng. Người nào lo lắng về phiền não, thì chí thành niệm A-Di-Đà Phật tự nhiên phá tan vô lượng phiền não. Nhưng xin nhớ cho, niệm Phật cầu vãng sanh chứ không phải niệm Phật để cầu giải nghiệp hay phá phiền não. Nếu sơ ý, chuyển đổi tông chỉ của Pháp Niệm-Phật, thì coi chừng bị lệch chánh pháp. Đã lệch chánh pháp, thì dù một ngày niệm 100.000 câu A-Di-Đà Phật, niệm 100 năm chưa chắc gì phá hết nghiệp chướng, mà đường vãng sanh bị bít lối. Thật oan uổng lắm vậy!
Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật nói rằng, nghiệp chướng của mỗi chúng ta, nếu có hình tướng, thì cả không gian trên 10 phương pháp giới đã bị niêm chặt rồi. Nghiệp chướng của chúng ta đã quá lớn, quá mạnh, không thể phá nổi. Vậy thì chúng ta phải có cách để vượt thoát. Đó là gì? Một là huân tu câu A-Di-Đà Phật, hai là buông sự lo âu về nghiệp chướng này xuống. Cứ niệm Phật cầu vãng sanh, nghiệp nào tiêu thì cứ để chúng tự tiêu, nghiệp nào không tiêu thì kệ chúng, chính ta không bám vào đó, không nhớ nó trong tâm, không bươi nó lên. Nhớ kỹ điều này. Nghĩa là, đừng sợ nghiệp chướng, đừng theo nghiệp chướng, đừng chủ tâm đánh lộn với nghiệp chướng. Nghiệp chướng nấp trong bóng tối, mình ở ngoài sáng đừng lo nghĩ đến nó làm gì. Phàm phu không đủ khả năng diệt nghiệp đâu.
Hãy niệm câu “A-Di–Đà Phật” cấy trong tâm chúng ta nhân chủng “A-Di–Đà Phật” vững vàng, duyên của chúng ta là tha thiết cầu vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, có nhân duyên đầy đủ chúng ta hưởng quả báo vãng sanh thành Phật. Còn nghiệp chướng của chúng ta để đâu? Chúng vẫn còn tràn trề, vẫn còn nằm im đó, nhưng vì Nhân của chúng chưa gặp được Duyên, nên chưa thành Quả-Báo, trong thời gian đó ta đã đi vãng sanh rồi. Pháp Niệm-Phật là pháp đới nghiệp vãng sanh, vượt qua nghiệp chướng. Vô cùng vi diệu, vô cùng tuyệt vời, là đại cứu tinh đối với hàng phàm phu vậy.
Ngài Triệt-Ngộ luôn luôn nhắc nhở cái tâm lực của người niệm Phật phải vững vàng, ý nguyện vãng sanh phải tha thiết. Đừng bám vào những thứ danh, văn, lợi, dưỡng, tiếng tăm… của thế gian này mà chịu chết. Muốn biết tâm lực có mạnh hay không hãy nhìn những lúc gặp biến cố bất thường thì biết liền. Một cây có gốc sâu hay cạn khi gặp cơn gió mạnh thì biết ngay. Từ vô lượng kiếp qua chúng ta đã bị nạn tai quá khổ đau rồi, nay thấy được cơ hội giải thoát thì phải vững vàng mà đi. Nếu không vững thì chúng ta đành phải đi theo vô lượng vô biên chúng sanh, sắp hàng hằng ngày, hằng giờ chờ chui vào tam ác đạo. Dẫu có tu hay không tu, nhưng sau cùng không được thành tựu, thì cảnh giới tối tăm khó tránh khỏi. Rất nhiều, rất nhiều những trường hợp bị đọa lạc đã hiển hiện trước mặt, cớ chi chúng ta còn mập mờ để chờ đại nạn!… Nhớ nhé.
(c): Chư Tổ Sư thị hiện giáo dục, làm tấm gương tốt cho chúng ta, vừa cẩn thận ngăn ngừa nghịch duyên bất ngờ.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Ngài Vĩnh-Minh Diên-Thọ nói: “Nhược ấm cảnh hiện tiền, miết nhĩ tùy tha khứ”. Lời này thấm thía lắm, đạo lý hay lắm! Ngài Ấn-Quang giảng giải lời này nói rằng, Ngài Vĩnh-Minh Diên-Thọ là một vị đại Thiền Sư trong đương thời, tu hành chứng được “Minh Tâm Kiến Tánh”. Đã “Minh Tâm Kiến Tánh, Kiến Tánh Thánh Phật” mà thốt lên lời này làm cho chúng ta cũng phải ngỡ ngàng!… Một người tu tốt như vậy, nhưng coi chừng lúc lâm chung chỉ cần một ý niệm phân vân do dự trong tâm thì “ấm cảnh hiện tiền, miết nhĩ tùy tha khứ”. Cái niệm trong tâm không thiện thì ác, không tốt thì xấu. Người tu hành tốt thường thường có nhân chủng thiện ứng hiện, thần thức mình liền theo nhân chủng thiện đó, vẫn tiếp tục đi trong cảnh luân hồi.
Khi đọc đến những sự tích của các vị đại Tôn Sư nhiều khi làm cho chúng ta giựt mình tỉnh ngộ. Ví dụ, khi Diệu Âm đọc đến sự tích của Ngài Cao-Phong Thiền Sư mà giựt mình. Ngài Cao-Phong là sư phụ của Ngài Trung-Phong. Ngài Trung-Phong là Quốc Sư đời nhà Nguyên, biên soạn ra “Pháp Tam Thời Hệ Niệm”. Ngài Cao Phong tọa thiền rất tinh tấn. Ngài chọn một mõm đá cao cheo leo, phía dưới là vực sâu thăm thẳm để tọa thiền, và thề rằng nếu giải đãi, hôn trầm thì chấp nhận chịu rơi xuống vực thẳm.
Đến một ngày nọ Ngài bị rơi thật. Ngài tưởng mình sẽ bị tan xương nát thịt mà thôi. Nhưng nhờ chân chánh tu hành, công đức lớn mà Ngài được Long Thần Hộ Pháp bảo vệ. Vi-Đà Tôn-Thiên Bồ-Tát đến cứu Ngài. Sau khi được cứu nạn, ngài Cao Phong vừa khởi chút tự hào về công đức tu hành của mình, liền bị Bồ-Tát Vi-Đà cảnh cáo rằng, còn 500 đời nữa ông phải tự lo lấy nhé. Khi nghe tới đoạn này làm cho Diệu Âm giựt mình! Một vị chân chánh tu hành cao tột như vậy, mà phải chết đi sống lại, xả thân thọ thân đến 500 đời nữa. Mà 500 đời sau là gì? Rồi sau 500 đời đó sẽ đi đâu? Không nói tới!… Nghe được những sự tích này thật là những bài học quý báu, chúng ta cần phải suy gẫm. Phải chăng, chư Tổ Sư thị hiện để giáo dục chúng sanh.
Vậy thì, muốn được vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc xin chư vị phải cẩn thận. Cẩn thận gì đây? Khi lâm chung phải cần những bạn đồng tu đến bên cạnh mình giúp đỡ cho mình. Một em bé tới giúp đỡ, mình cũng phải thành tâm kính cẩn tri ân. Một người mới biết tu, tu dở hơn mình đến hộ niệm cho mình, mình cũng thành tâm kính cẩn lắng nghe lời dặn dò của họ. Tại sao vậy? Vì họ đã học được cách hộ niệm, họ biết cách hướng dẫn mình thực hiện đường vãng sanh chứ không có gì cao xa đâu. Pháp Hộ-Niệm đơn giản, không có gì khó khăn, chỉ chờ người bệnh chú ý lắng nghe làm cho đúng để có hy vọng vãng sanh. Người hộ niệm đôi khi tu hành dở hơn mình, nhưng trong tình huống này họ có nhiều điểm giỏi hơn mình đó. Họ khỏe mạnh hơn, họ tỉnh táo hơn, họ cầm thìa tiếp nước giúp cho mình uống được… Còn mình tu hành giỏi, nhưng lúc đó lại cầm ly nước không nổi, mở mắt không ra, đã bỏ ăn bao nhiêu ngày rồi…
Người hiền lành thực thà được nhiều người giúp đỡ. Người chân chánh tu hành được chư Thiên-Long Hộ-Pháp âm thầm bảo vệ. Ngài Cao-Phong Thiền Sư trước đó không thấy được ai bảo vệ, nhưng vừa bị rơi xuống vực thẳm, thì liền có bàn tay đỡ lên.
Nghe được sự tích này, chúng ta phải cẩn thận giữ tâm chí thành, chí kính thì hưởng được sự lợi lạc vô biên. Còn người thiếu lòng khiêm cung thành kính, thì người hiền của thế gian còn xa lánh thay, huống chi là chư Hộ Pháp không buông bỏ. Các Ngài buông bỏ rồi thì sao? Chúng ta sẽ lâm vào cảnh vạn đầu thọ địch, làm sao tránh khỏi ách nạn?
Hiểu được đạo lý này nên chư Tổ Sư vẫn phải cẩn thận, vừa ngăn ngừa nghịch duyên, vừa làm gương mẫu cho chúng sanh biết để tránh nghịch duyên. Nghịch duyên từ trong, nghịch duyên từ ngoài. Nghịch duyên từ trong là thiếu khiêm cung, vọng tưởng, tự cho mình chứng đắc, v.v… Nghịch duyên từ ngoài là oán thân trái chủ nhiều đời nhiều kiếp, họ chỉ chờ một cơ hội người tu hành khởi tâm thượng mạn thì họ có cửa ngõ để ra tay.
Chí thành chí kính là đạo nhiệm mầu giúp chúng ta thành tựu đạo quả. Tâm hạnh khiêm cung, thành kính niệm câu A-Di-Đà Phật quyết lòng cầu về Cực-Lạc là đại lộ thênh thang trải bằng vàng cho ta vãng sanh Tịnh-Độ. Ai làm được vậy thì được quang minh của Đức Di-Đà chủ chiếu phổ độ, nhất định đều được vãng sanh thành Phật vậy.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.