Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 156)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Xin mở trang 62, vấn đề 39:
Niệm Phật đới nghiệp vãng sanh, dễ tu dễ chứng, nhưng có nhiều người niệm Phật bị thất bại vì một sơ suất lớn. Đó là gì?
Thưa với chư vị, tập sách này Diệu Âm chủ ý cố gắng đưa ra rất nhiều chi tiết cụ thể, càng đầy đủ chừng nào an tâm chừng đó. Cầu mong cho người nào có duyên đọc qua, có thể lượm lặt được chút ít lợi lạc, nhất là hy vọng đời này được vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Vì xin thưa thật với chư vị, trong quá khứ dài lâu, chúng ta thấy nhiều người hành trì pháp Phật, công phu khá khó khăn, nhưng cuối cùng sự thành tựu vô cùng hiếm hoi. Hiện tượng thất bại quá hiển nhiên này, cho phép chúng ta liên tưởng đến một sự sơ suất gì lớn lắm đây, thành ra pháp cứu độ chúng sanh thoát vòng sanh tử luân hồi của Phật hình như không còn thực nghiệm, không được ứng dụng rốt ráo, chúng sanh tu học Phật vẫn mơ mơ hồ hồ không có lối thoát, cuối cùng đành chịu thọ nạn trong những cảnh giới tối tăm đau khổ! Chính vì thế, đời này chúng ta có được duyên lành, thấy rõ con đường vãng sanh, xin chư vị cố gắng trân quý đừng để luống qua, oan uổng lắm.
(a): Không chịu cố gắng niệm Phật đến “Nhất Tâm Bất Loạn”, đây là một điều sơ suất lớn của người niệm Phật.
Đúng không chư vị? – (Sai). Nếu nói rằng niệm Phật không “Nhất Tâm Bất Loạn” là một điều sơ suất lớn, thì chính Diệu Âm này cũng bị sơ suất lớn, vì chưa được “Nhất Tâm Bất Loạn”, và cảnh giới “Nhất Tâm Bất Loạn” đối với Diệu Âm hình như vẫn xa vời vợi, không dám mơ có ngày với tới. Chư vị ở đây có ai chứng đắc cảnh giới này chưa? Nên nhớ “Nhất Tâm Bất Loạn” là sự chứng đắc đấy, chứ không phải niệm Phật tốt tốt một chút là “Nhất Tâm Bất Loạn” đâu nhé.
Trước đây có một vị đồng tu từ bên Mỹ qua đạo tràng này tu học. Vị đó cũng có ý niệm muốn được “Nhất Tâm Bất Loạn”, nên thực hiện một cuộc kiết thất 7 ngày, mỗi ngày chỉ ăn một bữa ngọ, rồi quyết tâm niệm Phật suốt ngày không ra khỏi cửa để cầu “Nhất Tâm Bất Loạn” theo như tiêu chuẩn trong kinh A-Di-Đà. Một vị Sư thấy vị này phát tâm tốt quá, tự nguyện xin làm hộ thất, chăm lo mọi việc cho vị đó an tâm kiết thất. Vị đó kể lại rằng, mới vào nhập thất chỉ có một ngày thôi mà đầu óc tự nhiên nóng bừng lên. Qua đến ngày thứ hai thì tình trạng căng thẳng lên đến mức chịu không nổi nữa, đành phải năn nỉ vị Thầy hộ thất mở cửa liền để thoát ra.
- Nếu không mở cửa kịp thời, có thể tôi bị tẩu hỏa nhập ma rồi. Vị đó nói.
Lý thuyết thì hay lắm, nhưng vào thực tế thì khác như trời với vực. Phát nguyện kiết thất 7 ngày tinh tấn, nhưng mới có 1 ngày đã chịu không nổi. Sự cố xảy ra hoàn toàn bất ngờ, không dự đoán được. Nếu biết mình là phàm phu, vị đó sẽ phát tâm vô phòng riêng nằm ngủ 7 ngày thì có lẽ thoải mái hơn, đâu đến nỗi phải la ơi ới xin cầu cứu.
Cho nên, khi đối diện với sự thực mới ngộ ra câu: “Lực bất tòng tâm” là như thế nào. Hữu chí là điều tốt, nhưng bất tài mà ngang ngạnh làm tới, thì dễ dàng tiến tới trạng thái bất bình thường. Người tu hành mà sơ ý thực hiện các pháp vượt qua căn cơ của mình rất dễ bị trở ngại. Hoặc nói rõ hơn, có thể bị tẩu hỏa nhập ma, gây hại cả cuộc đời. Chính vị đó đã bay qua Úc xin niệm Phật tại đạo tràng này để lấy lại sự thư giãn.
- Tôi qua đây với mục đích là xin tỵ nạn, để mong sớm quên đi cái cảm giác hãi hùng vừa mới trải qua. Theo lời vị đó nói.
Chính vì thế, “Nhất Tâm Bất Loạn” không phải đơn giản như nhiều người nghĩ. Người niệm Phật chúng ta nên cần giữ cái tâm thật thanh tịnh niệm Phật mới được. Thanh tịnh không phải vào phòng kín đóng cửa niệm Phật, không tiếp xúc với ai, không bị ai quấy rầy gọi là thanh tịnh. Chưa chắc đâu, coi chừng, một là: thanh tịnh giả; Hai là: “bị nổ cầu chì!…”. Ví dụ như vị đó, chút xíu nữa là bị nổ cầu chì. Mong chư vị chú ý, đừng quá sơ ý mà tự đưa mình đến chỗ khó khăn.
Chúng ta là người hạ căn, nên lấy những lời khai thị của Tổ Ấn-Quang làm mẫu mực để tu hành thì tốt lắm. Chí thành chí kính, khiêm cung niệm Phật là điểm an tâm nhất để cho người thấp thấp dở dở này được cảm ứng với 48 đại nguyện của Đức A-Di-Đà, được Phật thương xót gia trì, chư Bồ-Tát giúp đỡ, chư Thiên-Long Hộ-Pháp bảo vệ, giúp cho chúng ta vượt qua những cảnh khó khăn mà được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.
(b): Không đoạn diệt cho hết nghiệp chướng là một điều sơ suất lớn của người muốn đới nghiệp vãng sanh.
Đúng không chư vị? – (Sai). Không đúng lắm đâu. Đã gọi là “Đới Nghiệp Vãng Sanh”, thì chính từ này đã xác định là chúng ta còn nghiệp mà được vãng sanh. Đới nghiệp là mang nghiệp đi vãng sanh. Nói vậy cho dễ tưởng tượng ra, giống cảnh người có gánh nặng trên vai tự mình không lên núi nổi, nhưng nếu nhờ người trợ giúp, trước kéo sau đẩy, cũng có thể dễ dàng lên được tới đỉnh núi. Chứ thực ra, đới nghiệp không phải mang như vậy đâu, mà bao khối nghiệp lại, gởi khối nghiệp ở lại trong nhân gian, rồi chúng ta lặng lẽ vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Vãng sanh xong vừa chính ta được thành tựu đạo quả, vừa có năng lực cứu độ chúng sanh. Có năng lực cứu độ chúng sanh chính là cách trả nợ nhân-quả vô cùng tuyệt vời vậy.
Ví dụ như có người thấy mình mê mờ giết hại sanh vật, nay biết định luật nhân-quả rồi nên phát tâmsẵn sàng chờ đợi chúng sanh đến giết lại. Trả nợ nhân-quả kiểu này thì tất cả đều bị hại, oán oán chập chùng không có đoạn kết. Nếu muốn hóa giải được ách nạn này, tốt nhất hãy sám hối đi, kiêng cữ sát sanh và quyết lòng niệm Phật cầu vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc mới toàn vẹn. Được vãng sanh thì thành đạo, thần thông đạo lực của Tự-Tánh được phục hồi, chúng ta có thể quán xét được đến vô lượng kiếp về trước, biết tất cả những món nợ nhân quả do chính mình tạo ra mà đến cứu độ chúng sanh để trả nợ. Tuyệt vời chính là đây.
Trong thế kỷ 20, có nhà bác học Einstein, người Mỹ gốc Đức phát hiện một định luật tuyệt vời. Ta có thể dùng định luật này để thuyết minh cho năng lực của người vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Ông nói, nếu một người có thể đi nhanh bằng tốc độ ánh sáng, 300.000 cây số trong 1 giây, thì thời gian và không gian sẽ ngừng lại, những diễn biến trong không gian này không bị biến mất. Nếu tốc độ nhanh hơn ánh sáng, ví dụ 300.001 cây số trong 1 giây thì có thể đi ngược thời gian, nghĩa là những hiện tượng xảy ra trong quá khứ lần lượt sẽ được bắt gặp lại.
Những phát minh của khoa học tưởng là mới mẻ, nhưng không ngờ chính trong kinh điển của Phật đã nói đến hiện tượng này từ rất lâu xa rồi. Một người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc có thể biết được vô lượng kiếp về trước, có nghĩa là họ có năng lực di hành nhanh hơn tốc độ ánh sáng tới cả ngàn vạn lần. Họ đi bằng cái niệm, khoảnh khắc trong một niệm nhanh hơn tốc độ ánh sáng tới ngàn vạn lần.
Nhà bác học Einstein chỉ biết lý thuyết về tốc độ, chứ không bao giờ làm được, còn một người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc họ thực hành cái năng lực này, nhờ thế mà họ có thể biết được vô lượng kiếp về trước. Hơn nữa, họ còn biết đến vô lượng kiếp về tương lai. Nghĩa là, thời gian và không gian không còn ý nghĩa gì đối với họ. Cảnh giới này khoa học thế gian vĩnh viễn không bao giờ biết đến đâu. Đây chính là cái năng lực bất khả tư nghì của Tự-Tánh vậy.
Cho nên vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc sẽ viên mãn thành tựu Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác để cứu độ chúng sanh. Đây chánh là hạnh nguyện vì chúng sanh chịu khổ của chư Phật Bồ-Tát. Trả nghiệp của người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là như vậy, chứ không phải như sự suy nghĩ cạn cợt của kẻ phàm phu, ở đây còn nghiệp thì ở đây trả. Lúc mê muội giết hại chúng sanh, bây giờ hiểu được thì ngồi đây để chờ chúng sanh tới giết lại. Không đơn giản như vậy đâu. Giết qua giết lại không ngừng, nhân-nhân quả-quả chập chùng, oán-oán thù-thù bất đoạn, khổ đau bất tận, không có ngày giải thoát.
Chính vì thế, con đường diệt trừ hết nghiệp chướng thực sự vô cùng khó khăn, nhất là đối với hàng phàm phu, không một người nào có thể thực hiện được. Trước đây Diệu Âm có dịp bái kiến Hòa Thượng Trí-Đức, một vị Cao Tăng tu hành tinh tấn, luôn định kỳ nhập thất công phu, mỗi kỳ 3 tháng và liên tục như vậy. Ngài nói, người nào muốn diệt sạch hết nghiệp chướng, thì chẳng khác gì như cầm chiếc khăn lông lau qua lau lại một khối đá vuông vức cao 16.000 thước, rộng 16.000 thước, dài 16.000 thước. Lau đến khi nào khối đá mòn đi, tan ra thành bụi, thì lúc đó sẽ sạch nghiệp!… Có chư vị nào làm được chuyện này không? Chính vì thế, nếu đi con đường diệt nghiệp này, chúng ta phải trải qua vô lượng A-tăng-kỳ kiếp chưa chắc gì làm nổi!… Xin tự cẩn thận suy xét lấy.
Vậy thì, hàng phàm phu chúng ta chỉ còn có một con đường “Đới Nghiệp Vãng Sanh” là thực tế nhất, vì đã có rất nhiều người vãng sanh rồi. Đới nghiệp có nghĩa là còn nghiệp mà không nghĩ về nghiệp, còn nghiệp mà lách nghiệp ra, còn nghiệp mà không chui vào trong nghiệp, còn nghiệp mà không đấu tranh với nghiệp… Ngày ngày quyết lòng niệm A-Di-Đà Phật, nhớ đến A-Di-Đà Phật, nghĩ đến A-Di-Đà Phật, cầu vãng sanh thẳng về Tây-Phương Cực-Lạc. Tâm định vào đây, ta sẽ vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc với A-Di-Đà Phật, bỏ rơi lại sau lưng khối nghiệp chướng vĩ đại do chính ta đã tạo ra từ trong vô lượng kiếp. Vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc ta thành đạo rồi sẽ đi cứu chúng sanh mà trả nghiệp vậy.
(c): Người không có số phần vãng sanh mà cứ đòi vãng sanh là một điều sai lầm lớn.
Đúng không chư vị? – (Sai). Khi biết được đạo lý “Đới Nghiệp Vãng Sanh” rồi, Diệu Âm không bao giờ dám nói bất cứ một lời gì làm thoái tâm một người muốn trở về Tây-Phương Cực-Lạc. Ngược lại, nói lên nói xuống vẫn tìm cách khuyến tấn cho các chị, các anh, các bác, các cụ hãy mau mau niệm Phật cầu về Tây-Phương Cực-Lạc. Các ông các bà đã sơ ý tạo tội lỗi nhiều lắm rồi, nhưng xin đừng nản chí, hãy thành tâm sám hối đi, rồi quyết lòng niệm Phật cầu về Tây-Phương Cực-Lạc, 10 niệm tất sanh. Về được Tây-Phương Cực-Lạc sẽ giải quyết được tất cả. Không đi về Tây-Phương Cực-Lạc, nhất định không một người nào có thể giải quyết được ách nạn nghiệp chướng của mình.
Chính vì thế, chúng ta không được quyền thấy một người làm ác, làm hư… mà cho rằng họ không được vãng sanh. Đừng thấy một bà già lụm cụm, rách rưới, mà cho rằng bà này không được quyền vãng sanh. Đừng dẫn dắt đại chúng chỉ chăm lo bòn mót chút phước, rồi dặn họ đời đời kiếp kiếp tiếp tục tu hành. Con đường này dẫu có tốt tới đâu cũng không phải dễ dàng giải thoát đâu. Xin thưa với chư vị, khi biết được đạo lý “Đới Nghiệp Vãng Sanh” rồi, nhất định đừng cản trở đường vãng sanh của bất cứ người nào nhé. Chư Tổ Sư Tịnh-Độ, khi đã khai ngộ rồi, không bao giờ khuyên người tu hành chỉ lo làm phước thiện mà quên lãng đường vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Phật dạy, một người dù tội chướng sâu nặng mà biết kiệt lòng sám hối, thành tâm niệm danh hiệu Ngài cầu vãng sanh về nước Ngài, dẫu cho 10 niệm không được vãng sanh Ngài thề không thành Phật. Đây là lời thề của A-Di-Đà Phật, vô lượng vô biên chúng sanh đã thực hiện được rồi. Chúng ta phải tin, phải ứng dụng đúng theo đại nguyện này mà khuyên mọi người đều thành tâm niệm Phật cầu vãng sanh. Một người nào nghe khuyên liền thành tâm niệm Phật, chứng tỏ rằng nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ họ đã tu phước huệ đầy đủ rồi. Phật dạy, phải tu vô lượng kiếp mới có thể thành Phật, nhưng không phải là bắt đầu từ đây lần mò tu tới, mà thật ra có người trong vô lượng kiếp qua đã tu hành đầy đủ rồi, nay mới niệm được câu A-Di-Đà Phật vậy.
Mỗi người chúng ta đã sống từ vô thỉ cho đến vô chung. Quá khứ còn có đời quá khứ nữa: Quá khứ vô thỉ. Tương lai đời sau, còn có đời sau nữa: Vị lai vô chung. Chúng ta đi con đường dài vô cùng vô tận như vậy. Người nào trong đời này quyết lòng niệm Phật trở về Cực-Lạc, thì xin thành tâm chấp tay cung kính đảnh lễ, vì nhiều đời nhiều kiếp qua họ đã tu được vô lượng vô biên công đức rồi. Chúng ta hôm nay đã tin tưởng niệm Phật, xin hãy vững vàng đi tới. Đừng phân vân chao đảo mà bỏ cơ hội vãng sanh thành đạo, đừng chạy theo thế gian bám lấy con đường đọa lạc nữa nhé. Bị đọa lạc thì tự mình chịu lấy, chứ không đổ thừa cho ai cả. Nên nhớ, tự mỗi người phải chịu trách nhiện tương lai huệ mạng của chính mình. Khi bị đọa lạc, không ai tới cứu được mình đâu. Người nào dẫn dắt chúng ta đi lạc đường, tự họ có thể bị nạn nặng hơn mình, làm sao có thể cứu mình được. Chư vị hiểu không? Ráng lên nhé, đừng có sơ ý nữa.
(d): Không được hộ niệm cẩn thận để ngăn chận sơ suất, hóa giải chướng nạn, giải tỏa vướng mắc lúc lâm chung, là một sơ suất rất lớn.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Rõ ràng đây là một sơ suất rất lớn. Đời này tin Pháp Niệm Phật là do trong quá khứ có niệm Phật tu hành, nhưng tại sao chúng ta bị lọt lại trong kiếp người. Phật thệ 10 niệm tất sanh, tại sao trong đời kiếp trước ta cũng niệm Phật mà không niệm được 10 câu Phật hiệu cầu vãng sanh để về Tây-Phương Cực-Lạc thành đạo. Nhất định có điều gì sơ suất rồi vậy.
Trong những vấn đề sơ suất, có lẽ lớn nhất là quên rằng 10 niệm này là niệm 10 câu Phật hiệu cầu vãng sanh trong lúc lâm chung, chứ không phải 10 niệm lúc bình thường. Trong bao nhiêu thế kỷ qua, nhiều người cũng tu hành, cũng niệm Phật, nhưng khi ra đi hiếm thấy được một thoại tướng nào tốt đẹp, để chứng tỏ rằng ít ra cũng được sinh vào một cõi lành trong tam giới. Tại sao vậy? Tại vì trong lúc xả bỏ báo thân, không thực hiện được tông chỉ của pháp tu. Người niệm Phật lúc đó không thực hiện được Tín-Nguyện-Hạnh nữa, vì tình chấp không buông, oán thân trái chủ cài bẫy, nghiệp chướng phá hoại, bệnh khổ hành hạ, gia sự rối ren, v.v… làm cho tinh thần bị khủng hoảng, mê man bất tỉnh, chư căn tán loạn rồi.
Vậy thì, làm sao một người phàm phu như chúng ta trong lúc đó có thể giữ được chánh niệm Tín-Nguyện-Hạnh để cầu vãng sanh đây? Một là, tự ta phải chuyên nhất niệm Phật không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Hai là, nhất định phải cần những người còn sáng suốt ở bên cạnh hướng dẫn, khai thị, hóa gỡ từng chút từng chút vướng mắc, thì ta mới có cơ hội thực hiện đầy đủ chánh niệm này. Tất cả đều nhờ vào sự hộ niệm vậy.
Thế mới biết, Pháp Hộ-Niệm thực sự vô cùng cần thiết, vô cùng quan trọng. Xin hãy trân quý đại pháp cứu tinh này. Xin quyết lòng giữ cho chắc cơ hội này để cùng nhau vãng sanh thành đạo.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.