Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 114)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Xin chư vị mở trang 47, vấn đề thứ 14:
Vì sao pháp Hộ niệm là “Đại Cứu Tinh” cho chúng sanh?
Chữ “Đại Cứu Tinh!” này có lẽ có ý nghĩa khác với những từ “Đại Cứu Tinh” mà chúng ta thường nghe qua. Ví dụ, một cuộc động đất, một nạn đói, một tai nạn nào đó xảy ra, có người đến cứu trợ, chúng ta thường nghe nói rằng, đây là những vị đại cứu tinh. Nhưng thực ra, nói đúng nghĩa hơn, đây là những người cứu trợ, làm phước chứ chưa phải là “Đại Cứu Tinh” theo đúng ý nghĩa của Phật Giáo. Đại Cứu Tinh chúng ta đang nói đây không phải ngừng lại ở cái chỗ làm phước, cứu cái tai nạn nhất thời, mà đi xa hơn nữa là cứu sanh tử khổ nạn đời đời kiếp của chúng sanh. Nghĩa là, cứu chúng sanh vượt qua cảnh sanh tử luân hồi, từ đây không còn vướng một ách nạn nào nữa. Đây là một sự cứu tinh vô cùng vĩ đại, nên gọi là “Đại Cứu Tinh”.
Pháp Phật thật sự là đại pháp cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh, giúp chúng sanh ly khổ đắc lạc. Khổ là cảnh khổ sanh tử luân hồi. Lạc là cảnh Cực-Lạc đời đời kiếp kiếp an vui, không còn khổ đau nữa.
Nhưng nay đến thời mạt pháp của Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật rồi, xin thưa với chư vị, tu hành để đạt được cảnh ly khổ đắc lạc theo đúng ý nghĩa của Phật dạy cũng không phải chuyện dễ đâu. Tại sao vậy? Vấn đề này lớn lắm đấy. Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu đến Pháp Hộ-Niệm. Tại sao Pháp Hộ-Niệm lại là “Đại Cứu Tinh”? Tại sao Pháp Hộ-Niệm có thể giúp cho chúng ta thực hiện được mộng ước vượt thoát sanh tử luân hồi?
(a): Vì Pháp Hộ-Niệm có thể giúp hóa giải rất nhiều chướng nạn, ngăn chặn những tập tục sai lầm, giúp người lâm chung thoát khỏi những cạm bẫy hiểm nghèo.
Đúng không chư vị? – (Đúng). “Hóa giải rất nhiều chướng nạn…”. Chướng nạn gì mà nhiều vậy? Hôm trước mình đã nói rồi, chướng nạn từ trong tâm ứng hiện ra. Hầu hết là như vậy. Trong tâm của mình có chướng nạn gì? Thương con, nhớ cháu trong lúc xả bỏ báo thân, một chút này thôi trở thành một đại chướng nạn cho vô lượng kiếp về sau mà không hay. Thương nhà tiếc của trong lúc xả báo thân, người thế gian cho chuyện này là bình thường, thì trong nhà Phật cho đó là một đại chướng nạn từ trong tâm của mình ứng hiện ra làm mình bị nạn.
Hãy chú ý một chút nhé, chính cái nhà không phải là chướng nạn, mà tại vì mình tham luyến, không nỡ rời cái nhà nên nó trở thành một chướng nạn. Thực tế, căn nhà là một cứu tinh giúp cho mình có nơi trú ngụ, nhưng chỉ vì mình không muốn rời căn nhà khi xả bỏ báo thân, nên biến nó thành một thứ chướng nạn đó thôi. Con cái cớ sao lại là thứ trở ngại cho mình? Thực ra con cái chăm sóc mình, phụng sự mình, chứ không phải là thứ chướng nạn. Nhưng khi lâm chung mà thương con nhớ cháu không nỡ xa lìa, thì sự thương nhớ này sẽ làm cho mình bị đại chướng nạn. Tiền bạc rất cần cho mọi người, nhưng lúc lâm chung vẫn còn tham tiền, nhớ tiền, giữ tiền… Chính sự tham luyến tiền bạc nó làm chướng nạn cho đường giải thoát của mình. Cho nên, hóa giải ách nạn chính là hóa giải từ trong tâm của chúng ta. Những chướng nạn trong tâm phải buông ra.
Xin thưa với chư vị, một đời tu hành nhưng khi nằm xuống đừng vội nghĩ rằng mình sẽ vẫn tỉnh táo như hiện giờ nhé. Không đơn giản như vậy đâu! Coi chừng còn ghét người này, còn giận người kia là đại chướng nạn đó. Khi mình bệnh xuống, người đó thương hại đến hộ niệm cho mình, nhưng vừa thấy người đó đến mình lại khởi niệm phiền não, sân giận. Một khi khởi tâm sân giận ngay lúc lâm chung thì tự mình chọn con đường đọa lạc, tự mình chịu cảnh ách nạn trong tương lai. Như vậy, tại vì mình không chịu buông tình chấp xuống mà bị chướng nạn, chứ thực sự không có một người nào có thể gây chướng nạn cho mình cả.
Thành ra chỉ vài chữ “Hóa giải nhiều chướng nạn” thôi, nếu khai triển ra thì ta sẽ thấy rõ ràng tại sao Pháp Hộ-Niệm này trở thành Đại Cứu Tinh. Nếu không được hộ niệm thì khi nằm xuống, mình muốn làm gì đó thì làm, mình muốn ghét gì đó thì ghét, mình muốn nhớ gì đó thì nhớ, mình muốn tham gì đó thì tham… rồi sau cùng tự mình đi theo cảnh giới nào đó để chịu đọa lạc thì đi chứ không ai ngăn cản. Trong khi được hộ niệm, thì người ta khai thị, hướng dẫn, khuyến tấn, nhắc nhở cho mình buông những vướng mắc đó ra để đi vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Ngoài những chướng nạn do tình chấp gây ra, còn những ách nạn từ oán thân trái chủ, từ nghiệp khổ hành hạ, từ nhiều mối khác nữa… Nếu không có người hộ niệm khuyến tấn, chỉ điểm, nâng đỡ thì liệu có mấy ai vượt qua những chướng nạn trùng trùng đó đây?
Chư vị có thể thấy rõ thành tích cứu người vãng sanh từng ngày ở khắp nơi của Pháp Hộ Niệm, một pháp đơn giản nhưng ứng dụng vô cùng có hiệu lực. Sự thành tựu cụ thể, thực tế, hiển nhiên, nên chúng ta mới có thể mạnh dạn gọi pháp này là “Đại Cứu Tinh” vậy.
“Ngăn chặn những tập tục sai lầm”. Người đời sống với tập tục của thế gian lâu ngày đã biến thành một thứ tập khí ăn sâu vào tâm khảm, giờ đây muốn thay đổi không phải là điều dễ dàng. Cho nên, nếu có duyên hãy tu sớm một chút, ngộ đường tu hành càng sớm càng dễ bỏ đi những tập khí sai lầm. Những người có duyên học Phật quá trễ, khi hộ niệm chúng ta khai thị, nhắc nhở, nhiều khi nói mãi nói mãi mà người ta nghe không vô, không chịu bỏ, không chịu chuyển. Rõ ràng tập tục đã kết thành một thứ tập khí kiên cố, trở thành một trọng nghiệp cản ngăn đường giải thoát, thôi cũng đành chịu thua, chứ còn cách nào khác hơn?
Chính vì thế mà khi gặp được Pháp Hộ-Niệm rồi chúng ta phải tự giật mình một chút, tự buông xả một chút, chứ còn không thì tự chịu phần thua thiệt, không ai cứu được. Chư vị nên nhớ rằng, Ngài Đại Mục Kiền Liên là một Bồ-Tát, nhưng mẹ của Ngài lại keo kiệt, bỏn xẻn, không tin Phật, mẹ của Ngài khi chết xong cũng phải xuống địa ngục chịu nạn lấy thôi. Ai tu nấy đắc, không một người nào có thể tu thế cho người nào cả. Thương nhau chỉ có thể hướng dẫn, giảng giải đạo lý, còn phần tu hành phải tự mình tu, phải tự mình sửa. Có duyên với nhau trong cuộc đời ngắn ngủi này 3-4 chục năm, 5-6 chục năm, thời gian trôi nhanh như bóng câu qua cửa sổ, nếu chấp vào đây, coi chừng vạn đời vạn kiếp sau chịu lấy khổ đau. Thế gian có nhiều tập tục sai lầm, con người sống trên đời đã quen với những tập tục đó rồi, cứ tưởng đó là chân lý, cho đó là chánh đạo. Nay gặp chánh pháp giải thoát rồi, xin hãy tỉnh ngộ kịp thời mà buông những điều sai lầm ra, hãy bỏ những tập khí tai hại xuống để niệm Phật cầu vãng sanh thành đạo. Nếu tâm này cứ quyện theo đó thì đành phải chịu nạn vậy thôi.
“Giúp cho người lâm chung thoát những cạm bẫy hiểm nghèo”. Cạm bẫy gì đây? Cạm bẫy từ oán thân trái chủ cài ra đấy. Bây giờ còn khỏe, mình chưa thấy, chưa hình dung ra cảnh tượng oán thân trái chủ cài thế hãm hại để trả thù, đòi nợ đâu nhé. Nhưng khi đi hộ niệm vài ca rồi có thể chư vị sẽ thấy được hiện tượng này, có nhiều lúc tế vi, nhiều lúc khá rõ rệt. Vì thế kinh nghiệm về hộ niệm là cái vốn thật quý báu cho mỗi người chúng ta. Người đã có kinh nghiệm hộ niệm rồi không bao giờ dám sơ ý nghĩ rằng khi mình nằm xuống sẽ dễ dàng vãng sanh, không bao giờ dám khởi tâm thượng mạn. Và, chính nhờ kinh nghiệm hộ niệm mới lo ngày đêm chí thành niệm Phật, không dám lơ là nữa. Nên nhớ cho, oán thân trái chủ tấn công vô cùng bất ngờ, giống như một người núp trong bóng tối, chờ mình đi ngang qua bất ngờ quất cho một gậy, chỉ cần một gậy thôi, cũng đủ cho mình nằm chèo queo rồi!…
Hành động của oán thân trái chủ khó ai có thể ngờ được, họ ra tay trả thù không bao giờ báo trước. Chính vì thế, ở tại Niệm Phật Đường của chúng ta thường xuyên đọc lời hồi hướng: “Nguyện đem công đức này hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân trái chủ…”. Hãy thành tâm điều giải trước. Tâm mà thành thì có sự hóa giải, tâm không thành thì coi chừng oán thù càng ngày càng khốc liệt. Xin nhớ cho, 1 phần thành kính được 1 phần lợi ích, 10 phần thành kính được 10 phần lợi ích. Nếu thành tâm đem công đức hồi hướng hóa giải oán thù thì oán thù tự nhiên sẽ được hóa giải vậy.
(b): Một pháp có thể cứu hàng phàm phu vượt qua nghiệp chướng vãng sanh thành đạo, nên được gọi là Đại Cứu Tinh.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Nếu một pháp mà chỉ cứu được cho hàng thượng căn thượng trí thì pháp này dẫu cho vi diệu cũng không thể gọi là “Đại Cứu Tinh”. Đại là đại đồng, “Đại Cứu Tinh” là rộng độ chúng sanh. Pháp nào cứu được đại đồng chúng sanh, rộng độ chúng sanh mới đúng nghĩa là “Đại Cứu Tinh”. Pháp nào Phật dạy: “Tam căn phổ bị, Phàm Thánh tề thâu” thì đó chính là pháp “Đại Cứu Tinh”. Như vậy, rõ ràng chỉ có pháp môn niệm Phật mới có câu “Tam căn phổ bị. Phàm Thánh tề thâu”. Đây quả thực là một pháp đặc biệt nhất trong Phật Giáo. Còn tất cả các pháp môn khác, dẫu rằng vẫn là những pháp tối thượng nhiệm mầu, nhưng chỉ độ được hàng thượng căn thượng trí, còn hàng trung hạ căn ứng dụng không thể thành tựu, thì không thể nào gọi đó là pháp cứu tinh cho chính phàm phu như chúng ta được. Nếu sơ ý, tu hành không cẩn thận tuyển trạch pháp môn khế hợp căn cơ, dù giờ đây có lý luận cao siêu tới đâu, thì coi chừng sau cùng cũng chỉ là huyễn vọng, hoặc nhiều lắm cũng chỉ kết được chút duyên với Phật pháp trong vạn kiếp về sau, chứ sự thành tựu trong đời này chỉ là ước mơ xa vời vô thực. Còn pháp niệm Phật đã chứng mình sự thành tựu rất cụ thể, là một đại pháp có năng lực rộng độ chúng sanh, gọi“Phàm Thánh tề thâu, tam căn phổ bị”. Phàm là phàm phu như chúng ta. Thánh là chư vị Thánh Nhân, chư Bồ-Tát. Tề thâu là được bình đẳng thâu nhiếp. Ba căn thượng-trung-hạ đều bình đẳng được tiếp độ vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc thành đạo. Đây là một pháp đặc biệt, được gọi là “Môn Dư Đại Đạo”, một thuật ngữ trong Phật pháp chỉ dành để tán thán pháp môn niệm Phật này thôi.
Phật dạy, niệm Phật vãng sanh một đời thành Phật là “Nan tín chi pháp”, tức là pháp rất khó tin, chỉ những người nào có căn lành lớn lắm mới có thể tin vào pháp này. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy: “Vãn tích nhược bất tu phước huệ, ư thử chánh pháp bất năng văn”. Nghĩa là, người nào mà nhiều đời kiếp trong quá khứ chưa tu đủ phước huệ, thì nay gặp chánh pháp này không có khả năng để tin tưởng. Chúng ta vẫn thường nghe thấy nhiều người có tu học Phật rất lâu nhưng không tin Pháp Niệm Phật, có người còn nói ra những lời sai với chánh pháp, ví dụ như không tin có cõi Tây-Phương Cực-Lạc, không có Đức Phật A-Di-Đà, v.v… Đúng là một đại chánh pháp của Phật, mà người đệ tử Phật lại không có duyên. Rõ ràng, một người học Phật mà thực sự tin được pháp môn này không phải dễ dàng đâu nhé. Mong chư vị phải giữ vững niềm tin để cơ hội này mình vãng sanh thành đạo. Nếu yếu lòng, nghe người bàn ra tán vào mà tinh thần chao đảo, thì tự mình đánh mất cơ hội giải thoát, tương lai chịu đọa lạc vạn kiếp vậy.
Chính vì thế, khoảng 20 năm qua, Diệu Âm quyết định tập đóng lục căn, không dám nghiên cứu nhiều, không dám nghe ai nói nữa… Tự mình xét suy ra, thấy mình vẫn còn là phàm phu, nếu lao chao nghiên cứu khắp nơi, nghe người nói ra, nói vào, nói lên, nói xuống… thì tâm này sẽ chao đảo. Chỉ cần một chút chao đảo vậy thôi, coi chừng chính mình tiêu tùng huệ mạng, tương lai khó có cơ duyên cứu thoát.
Cho nên khi nói đến từ ngữ “Đại Cứu Tinh”, mong chư vị hãy nhớ đến từ ngữ “Vãng Sanh Thành Đạo”. Pháp Hộ-Niệm tuy đơn giản nhưng đã cứu được hàng phàm phu tội chướng như chúng ta một đời này vượt qua sáu đường luân hồi, trở về Tây-Phương Cực-Lạc một đời thành đạo. Hiện tượng vãng sanh đã quá rõ ràng, chứng minh quá cụ thể, không còn gì để nghi ngờ nữa. Thực sự, không có một pháp nào khác có thể nói trọn vẹn ý nghĩa “Đại Cứu Tinh” này, còn chính Pháp Niệm Phật Hộ Niệm Vãng Sanh đã làm tròn sứ mệnh cứu người một đời thành tựu đạo quả. Phàm Phu cũng được về Tây Phương thành đạo, Thánh Nhân thì về Tây Phương thành đạo có thừa. Rõ ràng “Tam căn phổ bị, Phàm Thánh tề thâu”. Phổ độ chúng sanh chỉ có pháp niệm Phật này mới nói lên được viên mãn. Tất cả pháp khác của Phật vẫn là chánh pháp, đều là vi diệu, nhưng khó có thể nói trọn lời rộng độ tất cả chúng sanh, vì chỉ cứu từng căn, từng cơ, từng bậc thích ứng. Chính vì ý nghĩa này mà trong kinh Đại Tập Phật dạy: “Ức triệu người tu hành (vì không hợp căn cơ nên) khó tìm ra được một người thành tựu. Chỉ người nào nương theo Pháp Niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi”. Tu hành mà không hợp với căn cơ nhất định không thể nào thành tựu. Pháp Hộ Niệm thực sự giúp người thực hiện chính xác vững vàng Pháp Niệm Phật, đã cứu vô số người vãng sanh một cách rõ rệt. Chính vì vậy chúng ta mạnh dạn tôn xưng Pháp Hộ-Niệm này Đại Cứu Tinh vậy.
(c): Vì người nào được hộ niệm cũng đều được vãng sanh cả.
Đúng không chư vị? – (Sai). Không bao giờ có chuyện người nào được hộ niệm thì chắc chắn được vãng sanh. Có một vài người, khi mới khởi sự hộ niệm, vì quá nhiệt tâm mà nói với người bệnh rằng, nếu được hộ niệm thì bảo đảm 100% vãng sanh. Xin thưa thực, chính Diệu Âm này chưa bao giờ dám nói lời này. Nếu gặp một người bệnh thật sự tin tưởng, gia đình tích cực hỗ trợ, họ làm đúng theo Pháp Hộ-Niệm, thì mình hy vọng rằng, người bệnh này ra đi có xác suất thành tựu rất cao, chứ không ai dám nói chắc chắn vãng sanh 100% được.
Làm đúng theo Pháp Hộ Niệm được viên mãn cần phải nói đến hai thành phần: Một là ban hộ niệm phải làm cho đúng, phải nghiên cứu cho chính xác, nghĩa là phải hiểu thấu và hành đúng Pháp Hộ-Niệm. Ban hộ niệm không được sơ ý, không được tự mãn, không được dựa theo ý nghĩ của mình mà tự thêm bớt vào Pháp Hộ-Niệm. Hai là người bệnh và gia đình cần hiểu thấu và hành đúng Pháp Hộ-Niệm. Khi ban hộ niệm hướng dẫn, gia đình và người bệnh phải hoan hỷ và quyết lòng làm theo cho đúng. Nếu được như vậy, thì ngày mãn báo thân, hiện tượng người bệnh được vãng sanh có thể sẽ diễn ra trước mắt mọi người. Còn như người bệnh và gia đình không chịu làm đúng, thì thôi chịu thua. Duyên phần hộ niệm đành phải dở dang, không thể giúp nhau được đâu.
Chính vì thế, trước sau gì vẫn cần tất cả mọi người có liên hệ đến cuộc hộ niệm đều phải tự mình làm cho đúng pháp mới có cơ duyên được cứu độ. Nếu làm sai pháp, thì tự mình chịu lấy trách nhiệm ngàn vạn kiếp của chính mình trong tương lai, không ai có thể thay thế mình được vậy. Hiểu được điều này, mong chư vị cố gắng nghiên cứu cho thấu đáo, hành cho đúng đắn Pháp Hộ Niệm để giúp người có duyên vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.