Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 122)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Xin mở trang 51, vấn đề 22:
Mục đích của Pháp Môn Niệm Phật là gì?
Nói đến vấn đề này có lẽ chúng ta cảm thấy nhàm chán vì quá xưa cũ, ở đây ai cũng biết rồi phải không? Nhưng xin thưa, những đề mục này cần phải nói ra cho tất cả mọi người cùng biết, chứ không chỉ nói riêng cho chúng ta đâu, vì thực sự có nhiều người chưa biết Niệm Phật để làm gì. Rất nhiều người tu hành theo kiểu chung chung, không có mục đích gì rõ rệt. Chúng ta nên biết rằng, mỗi pháp môn tu đều có tông chỉ, cách hành trì, và hướng tiến riêng. Mục đích của Pháp Môn Niệm Phật chính là vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc để một đời thành đạo. Đây là một điểm cụ thể, mọi người cần hiểu để cùng thực hành cho chính xác vậy.
(a): Tích công tạo phước, cầu mong đời sau được trở lại làm người tiếp tục tu hành cho đến ngày thành đạo.
Đúng không chư vị? – (Sai). Sai rồi phải không? Xin thưa thực, trong pháp giới này có vô lượng pháp môn tu tập, ngay trong Phật Giáo chúng ta Phật cũng để lại rất nhiều pháp môn tu, chứ không phải một. Nhiều người vì chưa rõ vấn đề này nên thường lầm lẫn, định nghĩa tu hành theo kiểu chung chung, không có hướng giải thoát. Trong những hướng tu hành đó, thì các pháp thuộc Nhân Thừa rất thịnh hành. Nhân Thừa là tu hành theo 5 giới, làm người tốt, làm người hiền lành. Rất nhiều người định nghĩa rằng, tu hành là làm thiện, tạo phước mong cho đời sau làm người tiếp tục tu tiếp. Vì vấn đề này khá thực tế, rất gần gũi với đa số đại chúng, nên thường tạo thành một ý niệm đơn giản là tu hành thì cứ làm lành làm thiện là đủ. Nhưng thực ra, làm thiện làm lành chỉ là các pháp tu thuộc về bố thí, làm phước. Nếu tốt thì hy vọng được phước hữu lậu, trong tương lai có thể thọ hưởng phước báu, đỡ vất vả hơn người thiếu phước, chứ đây không phải là pháp tu giải thoát sanh tử luân hồi.
Tất cả các pháp tu chánh pháp luôn luôn khuyến tấn việc làm thiện làm lành, như vậy làm việc thiện lành là căn bản tối thiểu của một người tu hành. Người niệm Phật cũng phải tu phước thiện. Tu phước thiện đối trị với nghiệp chướng. Hễ phước báu tăng thì nghiệp chướng giảm, đến lúc lâm chung nhờ có phước báu mà bớt đi những chướng nạn, người niệm Phật cầu vãng sanh cũng vượt qua những khổ nạn dễ dàng hơn để vãng sanh Tịnh-Độ.
Cho nên, dùng các pháp tạo phước lập đức để làm trợ hạnh thì rất tốt. Còn người tu hành chỉ nhắm vào việc tạo phước, lập đức, lấy điều này làm chánh hạnh thì đây chỉ là pháp tu làm người hiền, Phật Giáo gọi là “Nhơn Thừa”, hoặc cao hơn chút nữa, gọi là “Nhân-Thiên Thừa”, quả báo nhiều lắm cũng chỉ sanh trở lại làm Người, Quỷ-Thần, Trời trong sáu đường sanh tử luân hồi, chứ không thể cao hơn. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy, người tham cầu phước báu nhân thiên thì không thể vãng sanh.
Tóm lại, tu thiện tích đức cần phải có, nhưng lấy đây làm trợ hạnh thì rất tốt, còn đem các pháp này làm chánh hạnh thì không phải là đường tu giải thoát. Xin chư vị nhớ kỹ nhé.
(b): Pháp Môn Niệm Phật là nương theo đại nguyện của Đức A-Di–Đà, đới nghiệp vãng sanh, đi thẳng về Tây-Phương Cực-Lạc, một đời viên mãn đạo quả.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Rõ ràng đây là điểm chính của Pháp Môn Niệm Phật. Có phân tích rõ ra chúng ta mới thấy có những ý niệm không đúng về đạo giải thoát. Tất cả pháp môn của Phật đều là chánh pháp, nhưng đều có tầng lớp, có đốn có tiệm, có bán có mãn, có viên có thiên, có liễu giáo có bất liễu giáo… Nhiều người cứ nghĩ rằng tu hành thì làm thiện tích đức là được, dù đây vẫn là chánh đạo, nhưng không thể gọi là pháp tu giải thoát, vì tu hành như vậy không viên mãn, không liễu giáo. Có lần ngài Tĩnh Am Đại Sư, Tổ Sư trong Tịnh-Độ Tông Trung Hoa la rầy một vị Phật tử suốt đời lo tu thiện, tích công, lũy đức, bố thí, cúng dường… rất lớn, nhưng lại lơ là việc niệm Phật cầu vãng sanh. Ngài nói, nghiệp thiện càng lớn, sanh tử càng nặng, cuối cùng nhiều lắm cũng chỉ có thể hưởng phước báu nhân thiên trong sáu đường sanh tử luân hồi, chứ không thể giải thoát.
Vậy thì, việc tu hành chúng ta cần hiểu rõ đường giải thoát, phải nhận thức điểm nào chánh, điểm nào phụ, đừng nên mơ hồ với những quan niệm chung chung mà uổng phí một đời tu tập.
Đại nguyện của Đức A-Di-Đà cho phép chúng sanh đới nghiệp vãng sanh. Đạo lý đới nghiệp này vô cùng quan trọng, nhất là đối với hàng phàm phu, đây là pháp cứu tinh cho chúng ta nương tựa để vãng sanh thành đạo đấy.
Đới Nghiệp là gì? Là còn nghiệp mà được vãng sanh. Pháp Môn Niệm Phật không phải diệt nghiệp, tiêu trừ tận hết nghiệp chướng rồi mới được thoát vòng sanh tử. Tiêu trừ tất cả nghiệp chướng để giải thoát là những pháp môn tự lực, cần phải đoạn sạch nghiệp chướng mới chứng lấy chơn thường. Những pháp môn này quá khó, hàng hạ căn phàm phu không thể nào thực hiện nổi. Còn đới nghiệp vãng sanh thuộc về pháp môn nhị lực. Nhị lực là hai lực. Lực của chúng sanh tu tập cộng với lực tiếp dẫn của A-Di-Đà Phật mà chúng sanh được độ thoát. Đại nguyện của A-Di-Đà Phật cứu độ tất cả chúng sanh muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thành ra chúng ta được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc là nhờ đại nguyện của Đức A-Di-Đà và lực gia trì của chư Phật trên mười phương pháp giới. Một khi được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc rồi thì ở đó là cảnh giới của Pháp Tánh, nhờ trở về với Pháp-Tánh Độ mà Chân-Tâm Tự-Tánh của chúng ta từng bước hiển lộ. Người mang nghiệp ít thì sanh về Thượng Phẩm, mang nghiệp vừa thì sanh về Trung Phẩm, người mang nghiệp nặng quá như phàm phu của chúng ta thì sanh về Hạ Phẩm. Tứ độ, cửu phẩm đều chung một nơi, hễ vãng sanh về đó rồi thì vững vàng, lục đạo sanh tử luân hồi không còn vướng bận nữa, từ đó chúng ta cứ tiến thẳng đến ngôi vị Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác, không còn bị thoái chuyển nữa, gọi là “Bất Thoái Chuyển”, khai mở Chơn-Tâm Tự-Tánh, viên mãn đạo quả.
Mong chư vị nhớ cho, đây là điều vô cùng quý báu, rất là quan trọng. Chính nhờ pháp môn vi diệu này mà chúng ta mới có cơ hội một đời này được thành đạo. Nếu không có pháp môn nhị lực này, thì xin thưa với chư vị, đạo Phật đến thời mạt pháp này cũng vô phương cứu độ được chúng sanh.
Ấn Tổ nói:
Bỏ đường tắt Tây-Phương, chín cõi pháp giới chúng sanh không thể tròn cõi giác.
Rời cửa mầu Tịnh-Độ, mười phương chư Phật không vẹn toàn cứu độ quần sanh.
Thực sự nghiệp chướng của chúng sanh quá lớn chư Phật cứu không được. Nghiệp nhân quả báo của mỗi người phải do chính mỗi người lo liệu lấy. Phật phát hiện ra cái đạo lý “Nhất thiết duy tâm tạo”. Dựa vào đạo lý duy tâm này mà chỉ bày cho chúng ta cách vượt thoát ách nạn. Chỉ có Pháp Niệm-Phật cho phép chúng ta mạnh dạn tự chủ dùng cái đạo lý nhất thiết duy tâm tạo này mà đới nghiệp vãng sanh, tạo một tâm lực mạnh mẽ bằng ý nguyện vãng sanh, để theo cái tâm nguyện đó mà vượt qua tất cả ách nạn của nghiệp chướng, trở về Tây-Phương Cực-Lạc thành đạo. Nếu sơ ý, đem tất cả tâm lực của mình đổ dồn vào việc đối trị với nghiệp chướng, đấu tranh với nghiệp chướng, thì sự thắng hay bại sẽ định đoạt lấy tương lai có phước hay không, chứ không phải do tâm tạo. Nếu là hàng đại căn đại trí thì có quyền chọn lấy con đường “Đoạn Hoặc Chứng Chơn” này. Còn hàng phàm phu chúng ta thì nghiệp chướng quá mạnh, năng lực quá yếu, nếu đấu tranh với nghiệp chướng thì chờ ngày đầu hàng. Hay nói rõ hơn, là tự chọn lấy sự thất bại để chịu khổ nạn trong tương lai.
Cho nên, chúng ta phải dựa theo pháp đới nghiệp, phục nghiệp mới tốt. Với pháp này, một người còn nhiều nghiệp chướng mà sự thành tựu có hy vọng tràn đầy. Hãy mau mau nuôi dưỡng tín tâm vững vàng, ý nguyện vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc tha thiết, nhiếp tâm niệm A-Di-Đà Phật để vượt qua tất cả mọi ách nạn, vãng sanh thành đạo.
(c): Đoạn diệt Nghiệp-Hoặc, tu chứng từng cấp cho đến ngày Minh Tâm Kiến Tánh – Kiến Tánh Thành Phật.
Đúng hay sai? – (Sai). Câu này không đúng với Pháp Niệm-Phật, nhưng đúng với các pháp môn tự lực. Ví dụ như các vị tu Thiền Định bên Tông Môn, lấy sự tu chứng từng cấp để tiến tới. Hành trì của các ngài là đoạn diệt Nghiệp-Hoặc để chứng lấy Chơn-Thường. Nghiệp-Hoặc là một thuật ngữ chỉ cho nghiệp chướng. Các pháp môn tự lực bắt buộc phải đoạn diệt nghiệp chướng, tiêu trừ nghiệp chướng, phải đạt đến chỗ nghiệp sạch tình không mới có thể vượt qua tam giới. Mục tiêu này là chủ lực của những vị quyết lòng tự lực tu chứng.
Hôm trước chúng ta có nói qua về Hoành-Siêu và Thụ-Xuất. Hoành-Siêu là đi ngang, băng ngang qua nghiệp chướng. Thụ-Xuất là đi theo dọc, tu chứng từng cấp từng cấp tiến lên cho đến khi thành tựu đạo quả. Đường Thụ-Xuất cần đến căn tánh cao, ý chí mạnh, nghị lực vững, chỉ có những vị đại Bồ-Tát mới thực hiện được. Còn trung Bồ-Tát, tiểu Bồ-Tát chưa chắc gì làm nổi. Ở đây chúng ta không phải là Bồ-Tát, mà lại là phàm phu chính hiệu nữa thì thôi chịu thua, vô phương thành tựu với con đường này. Thành ra, tự lực tu chứng cho đến ngày “Minh Tâm Kiến Tánh, Kiến Tánh Thành Phật” thì quá khó khăn với chúng ta, còn niệm Phật cầu vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc là băng ngang qua nghiệp chướng mà vãng sanh. Khi về tới Tây-Phương Cực-Lạc thì không minh tâm cũng minh tâm, không chứng đắc cũng chứng đắc. Đây là nhờ sự gia trì của A-Di-Đà Phật, cùng chư Phật trên mười phương mà chúng ta được sự lợi lạc này. Nhờ chư đại Bồ-Tát trên cõi Tây-Phương, đều là bạn lữ, giúp cho chúng ta khai tâm mở tánh. Ngay cả Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật cũng đang ở cõi Tây-Phương Cực-Lạc, Ngài cũng sẽ gia trì cho chúng ta khai tâm mở tánh. Hãy vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc đi, chúng ta sẽ thấy tất cả chư vị Phật đều hội tụ tại cảnh giới Thường-Tịch-Quang Tịnh-độ. Đạo lý này quá cao, xin hãy tin tưởng mà đi, khi vãng sanh rồi chúng ta mới biết thế nào gọi là “Phật-Phật Đạo Đồng”, “Tam thế nhất thiết Phật, cộng đồng nhất Pháp-Thân”. Khi thành Phật rồi chúng ta mới hiểu được viên mãn ý nghĩa này, chứ không thể sơ suất giảng giải đạo lý này ở đây được đâu.
(d): Tạo được sự an lạc trong hiện đời là được, quá khứ đã qua không cần nghĩ đến, tương lai chưa đến lo tới ích gì.
Ý nghĩ như vậy đúng hay sai? – (Sai). Niệm Phật cầu vãng sanh là chúng ta lo chuẩn bị để tương lai ta về Tây-Phương Cực-Lạc, chứ tu hành không phải chỉ lo cho hiện đời này là đủ đâu. Có nhiều người dựa theo thuyết hiện sinh mà lập luận rằng, tất cả đều ở hiện đời, quá khứ đã qua không bao giờ trở lại thì nghĩ tới làm chi, tương lai chưa tới, lo đến ích gì. Thuyết hiện sinh này khá thịnh hành bên trời Âu. Các nhà triết gia người Pháp vào thế kỷ thứ 19-20 như Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir có thể gọi là đại diện cho học thuyết lừng danh một thời này.
Quá khứ đã qua rồi, ngày hôm qua đã qua rồi đâu còn trở lại nữa, thì nghĩ đến làm chi?… Ngày mai chưa đến cớ gì phải lo tới?… Chỉ cần tự tại thoải mái cho hiện tại này là được. Đây là điểm chính của học thuyết hiện sinh. Lý thuyết hiện sinh giúp cho người ta an tâm, nhẹ nhàng, thoải mái, không sợ, không lo gì trước hiện tình của cuộc sống. Cách lý luận này suy ra cũng tốt đấy, nhưng nếu đem giáo lý của Phật ra mà soi chiếu, thì chủ thuyết này còn quá nhiều thiếu sót. Hỏi thử, tốt một chút với đời này, còn đời sau bị nạn thì làm sao đây? Nên nhớ cho, đời sau chưa tới chứ không phải là không tới, lúc tới rồi bị đọa lạc thì còn có thể an nhiên tự tại được nữa chăng?!…
Vậy thì, chủ trương rằng chỉ lo thoải mái cho hiện tại là được, nghe qua thì có phần thiết thực, nhưng rõ ràng có chỗ vụng về. Người trong đời này được thoải mái ít ra cũng có chút ít phước báu, còn những người nghèo đói, không đủ ăn, có thể an nhiên được không? Lúc gặp hoạn nạn có tự tại được không? Rồi đau ốm, tai ương, dịch bệnh, lâm chung, v.v… bao nhiêu nghiệp chướng dồn dập đổ về chúng ta sẽ gặp khó khăn vô cùng đấy. Lúc đó không thể an nhiên đứng đó lý luận đâu.
Thật ra, quá khứ đã qua rồi, nhưng không mất. Chính hành động trong quá khứ của ta đã tạo ra hoàn cảnh hiện tại này đây. Tương lai chưa đến nhưng đó là thành quả của những gì ta đang làm hôm nay. Trong quá khứ chúng ta mê mờ tạo nghiệp, nghiệp nhân đó tạo ra cái quả trong đời này bắt chúng ta gặp cảnh khó khăn. Cái nhân tạo tác trong hiện đời này nó kéo tới quả báo tương lai chúng ta bị thọ lãnh. Quá Khứ – Hiện Tại – Vị Lai nó liên kết với nhau chặt chẽ như những mắc xích của một sợi chuỗi dài.
Dục tri tiền thế nhân,
Kim sanh thọ giả thị.
Dục tri lai thế quả,
Kim sanh tác giả thị.
Muốn biết đời kiếp trước như thế nào, thì nhìn vào sự thọ hưởng trong đời này. Muốn biết quả báo tương lai đời sau như thế nào, hãy nhìn vào những gì đang làm trong đời này. Chư vị muốn đời sau mình vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì đời này hãy lo niệm Phật cầu nguyện vãng sanh. Nếu muốn đời sau thọ hưởng phước báu, thì đời này phải lo làm thiện tích phước. Rõ ràng, tất cả đều là nhân quả của chính ta tự thực hiện lấy. Như vậy, muốn đời sau mình không còn kẹt ở thế giới Ta-Bà khổ não này nữa mà được đi về thế giới Tây-Phương Cực-Lạc thành đạo, thì đời này mình nhất định phải thực hiện phương pháp niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Tất cả đều là lời Phật dạy, chính xác vô cùng.
Niệm Phật là đại chánh pháp ứng dụng thích hợp trong thời mạt pháp này để cứu độ tất cả chúng sanh một đời này thành tựu đạo quả. Mong chư vị tin tưởng vững vàng, tu hành chính xác để chúng ta đều được trọn thành Phật Đạo.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.