Để Hiểu Thấu Hành Đúng Pháp Hộ-Niệm
(Tọa đàm 66)
Lão Cư Sĩ Diệu Âm Minh-Trị giảng lần thứ 2
Tại Niệm Phật Đường A-Di-Đà Brisbane Úc Châu (2017-2018)
Nam Mô A-Di-Đà Phật.
Người hộ niệm cần trang bị những kiến thức gì?
Xin chư vị mở trang 28, dòng cuối cùng, câu (d): Phải đọc tụng càng nhiều kinh điển của Phật càng tốt.
Đúng không? – (Sai). Pháp môn niệm Phật rất cần sự chuyên tinh, chuyên tu, đi thẳng một hướng thì sự thành tựu của người niệm Phật mới được bảo đảm. Muốn vãng sanh mà đường tu “Bất Định” thì ngày về Tây-Phương Cực-Lạc còn xa vời vợi. Muốn vãng sanh mà đường tu “Tà Định”, thì phải trải qua nhiều đời nhiều kiếp nữa mới được. “Tà Định” có nghĩa là đi xéo xéo chứ không đi thẳng. Nói rõ hơn, trong thời mạt pháp này người tu hành mà không nương vào pháp niệm Phật, thì trong kinh Vô-Lượng-Thọ Phật gọi là “Tà-Định-Tụ”, nghĩa là tu không thẳng đường về Tây-Phương Cực-Lạc. Người tu tập quá nhiều pháp môn thì Phật gọi là “Bất-Định-Tụ”. Tà-Định-Tụ và Bất-Định-Tụ không thể vãng sanh. Còn người giữ chánh niệm thì được hưởng “Chánh-Định-Tụ”. Chánh niệm của pháp môn niệm Phật là trì giữ câu A-Di-Đà Phật, tha thiết nguyện vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc và lòng tin không lay chuyển. Người giữ vững chánh niệm gọi là Chánh-Định. “Chánh-Định-Tụ” là sự thành tựu do chuyên chánh niệm Phật, đi thẳng tắt con đường vãng sanh.
Chính vì vậy, nếu dùng phương pháp niệm Phật vãng sanh để hộ niệm cho người, chúng ta cũng phải lấy cái tinh thần chuyên nhất này mà khuyên nhau, cố gắng giúp cho người bệnh lúc xả bỏ báo thân phải chuyên nhất nhiếp tâm vào một câu A-Di-Đà Phật mà niệm để cầu vãng sanh, thì bảo đảm người đó được vãng sanh. Còn lúc đó mà thêm cái này thêm cái nọ, thì phước báu nào đó có thể hưởng, chứ còn đường đi về Tây-Phương Cực-Lạc hình như đã bị bít lối rồi.
Xin thưa với chư vị, ở đây chúng ta chỉ nhắm tới đường vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, chứ không bàn đến các hướng tu khác. Muốn vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì đường tu hành cần chuyên trong chuyên, cần phải “Nhất hướng chuyên niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh bỉ quốc” ngay lúc xả bỏ báo thân. Chính vì đạo lý này, mà có nhiều người dù cả một cuộc đời không tu hành, nhưng trước những ngày sắp chết, họ gặp được duyên lành, có người đến khuyên bảo, có người đến hộ niệm, nếu họ tự nhiên phát khởi tín tâm, chuyên nhất một câu A-Di-Đà Phật mà niệm, dẫu rằng thời gian niệm Phật chỉ có 1 tháng, 2 tháng, nhiều khi người ta niệm 1 ngày, 2 ngày, 1 tuần, 2 tuần… vậy mà người đó lại được vãng sanh. Đi hộ niệm mà gặp được một người phát khởi niềm tin vững mạnh, quyết lòng cầu vãng sanh, nếu có sự thuận duyên từ gia đình nữa, thì chúng ta sẽ mừng vui vô cùng vì tràn trề hi vọng sẽ đưa tiễn được thêm một người nữa vãng sanh.
Biết được hộ niệm rồi, nhìn lại thân phận phàm phu tệ hại của chúng ta, xin chư vị cần nhận thức nghiêm chỉnh, tu hành phải có chủ định, không thể mập mờ được. Rõ ràng có đường tu dễ thành tựu đạo giải thoát, có đường tu rất khó vượt thoát sáu đường luân hồi. Tu dở thì kẹt trong tam ác đạo, tu hay hơn thì có thể vượt 3 đường ác, nhưng cũng còn kẹt trong đường phước báu Nhân-Thiên, không thể thoát ly sanh tử. Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật dạy người còn tham chấp phước báu nhân thiên thì phải ở lại trong cảnh Ta-Bà chứ không vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc được. Tu hành phải có chủ đích giải thoát rõ rệt, nếu mập mờ đường giải thoát, dù tu nhiều hạnh thiện lành, vẫn chỉ là nghiệp của Ma. Đây là dạy của Phật trong kinh Hoa Nghiêm. Mong chư vị cần nhớ đạo lý này để thực hiện cho đúng đường giải thoát.
Vì thế nếu nói rằng, “Phải đọc tụng càng nhiều kinh điển của Phật càng tốt”, thì tốt đối với người tu theo các pháp thuộc về Giáo-Hạ, chứ không phải là điều chủ yếu của người niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh-Độ. Sự hành trì của các vị tu theo Giáo-Hạ là nghiên cứu kinh điển để cầu chứng đắc cảnh giới “Đại Khai Viên Giải”. Xin thưa với chư vị, muốn thực hiện được đường tu Giáo-Hạ này, căn cơ phải từ trung căn trở lên. Hay nói cách khác, hàng trung-thượng căn mới tu nổi, và dù có tốt đi nữa, thì thời gian phải trải qua cả đại A-tăng-kỳ kiếp mới có thể thành tựu! Thời gian này thực sự không phải đơn giản như chúng ta nghĩ tưởng. Để hình dung ra con số “Đại A-tăng-kỳ”, có tài liệu nói rằng, hãy viết xuống giấy một con số 1, rồi viết thêm 140 con số 0 phía sau, đó là một đại A-tăng-kỳ. Một con số 1, rồi 140 con số 0 phía sau! Chư vị hãy tính thử đi, cứ 9 con số 0 là 1 tỷ, có 140 số 0 thì phải nói tỉ-tỉ-tỉ-tỉ… trên 15 lần tiếng tỉ như vậy để thành một con số gọi là “Đại A-tăng-kỳ”. Mà đại A-tăng-kỳ kiếp chứ không phải đại A-tăng-kỳ đời. Một kiếp là cả hàng triệu đời đấy… Thời gian thực quá kinh khủng!…
Chính vì thế mà đối với hàng phàm phu như chúng ta, Phật dạy nên đi thẳng, đi tắt, đi vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, đừng đi theo con đường tu hành trải qua hàng đại A-tăng-kỳ kiếp, thật quá khó quá khó!… Chỉ có những người đại Bồ-Tát, trong vô lượng kiếp các Ngài đã tu sẵn rồi, bây giờ tiếp tục tu thêm nữa, mới có hi vọng thành tựu. Còn chúng ta thì ai dám bảo đảm nhiều đời nhiều kiếp đã tinh tấn tu hành đúng mức, để đời này tiếp tục sự nghiệp đó mà thành tựu? Thân phận phàm phu còn nguyên vẹn là phàm phu trong đời này với nghiệp chướng sâu nặng, đầu óc mê mờ, đời sau bị đọa lạc thấy rõ ràng trước mắt.
Vậy thì phải nghe lời Phật dạy, bám chặt lấy câu A-Di-Đà Phật đi thẳng về Tây-Phương Cực-Lạc. Đây là đường tu băng ngang qua lục đạo, thoát khỏi sáu đường luân hồi, vãng sanh Tịnh-Độ. Vãng sanh không phải là pháp tu tự chứng đắc, khai mở trí huệ, mà di cư về cõi Tây-Phương Cực-Lạc. Về đó rồi thì không đắc cũng sẽ đắc, không chứng cũng sẽ chứng, không khai cũng sẽ khai, không ngộ nhập Chơn-Tánh cũng sẽ ngộ nhập Chơn-Tánh. Chắc chắn như vậy! Đây là nhờ sự gia trì của đức A-Di-Đà và chư Phật trên mười phương pháp giới vậy.
Đem lý đạo này mà ứng dụng trong Pháp Hộ-Niệm thì tuyệt vời vô cùng. Người niệm Phật càng chuyên chừng nào, càng vững chừng đó. Khuyên người bệnh hãy bám chặt lấy câu A-Di-Đà Phật mà niệm. Càng chuyên chừng nào, càng tốt chừng đó, người nào bám chặt lấy câu A-Di-Đà Phật rồi thì vãng sanh có trong tầm tay. Tín-Nguyện-Hạnh vững vàng thì một đời này thành tựu đạo quả.
Vậy thì người hộ niệm cũng phải chuyên tu, đừng nên nghiên cứu quá nhiều mà tâm ý mông lung, đem cái tâm mông lung đó mà giảng giải, khai thị cho người bệnh thì thua rồi. Hướng dẫn quá mông lung thì làm sao người bệnh biết đường vãng sanh để một đời này về tới Tây-Phương Cực-Lạc?
Hiểu rõ được điều này mới biết rằng, Pháp Hộ-Niệm tuy đơn giản, nhưng hiểu thấu rồi chúng ta mới thấy, tất cả lý-đạo cao siêu trong pháp giới đang nằm ở đây. Từ từ rồi chư vị sẽ thấy nhé. Hay vô cùng.
(e): Cần biết ứng dụng tâm lý để khuyến tấn người bệnh.
Đúng không chư vị? – (Đúng). Vô cùng đúng đấy. Tâm lý không phải là Phật pháp, nhưng đối với một người bệnh đang có tâm lý rối bời, thì dùng tâm lý để hóa gỡ ra là điều chính xác. Nếu chúng ta là người tu hành vững vàng, lúc đó chúng ta sẽ an tâm. Tâm ta đã định về cõi Tây-Phương Cực-Lạc rồi thì vấn đề tâm lý không cần thiết nữa, khỏi đặt ra làm chi. Còn những người ít tu, chưa biết vãng sanh là gì, mập mờ con đường giải thoát, niềm tin yếu đuối, nghiệp báo đang hiện hành… thì cần phải dùng tâm lý để khuyến tấn, nâng đỡ người ta lên là điều rất cần thiết.
Câu (d) bên trên nói về đạo pháp thì thích hợp với người học Phật, nhưng nếu nghiên cứu quá nhiều kinh sách, nghiên cứu quá nhiều pháp môn, nghiên cứu quá nhiều đạo lý, để đem ra ứng dụng lại không hợp với những người bệnh đang nằm chèo queo, thở phì phèo chịu nạn. Tâm lý không phải là Phật pháp, nhưng chính tâm lý có thể gỡ những người có tâm lý đang bị rối lại rất hay.
Chư vị thấy rõ đấy, Pháp Hộ-Niệm ứng dụng đầy đủ cả Phật pháp, thế gian pháp, tâm lý, triết lý, khoa học… Một người đang sợ, ở bên một người vững tâm, tự nhiên tâm của người sợ sẽ vững lên, không còn sợ nữa. Một người đang sợ sệt lại gặp một người cũng có tâm trạng sợ sệt nữa, thì làm cho họ càng sợ hơn. Một người tâm không an đi trong đêm tối, lại đi bên một người không an tâm nữa, thì hai người này không dễ gì đi qua được trong đêm tối đâu. Hai tâm trạng bất an gặp lại càng làm cho họ bất an hơn!… Hai cái sợ nó hù dọa nhau. Người này hù người kia, người kia hù người nọ, làm cho sợ hoảng kinh luôn! Còn một người tâm nhác yếu đi qua đường vắng tối tăm, nhưng gặp một người vững vàng không sợ sệt, tới vui vẻ nắm tay cùng đi, tự nhiên làm cho họ thấy an tâm liền. Đây là vấn đề tâm lý, hay có thể gọi là tâm tâm tương ứng nhau.
Khi đi hộ niệm, chính người hộ niệm có tâm ý vững vàng, thành khẩn muốn vãng sanh thì giúp cho người bệnh dễ vãng sanh hơn. Còn một người hộ niệm mà tâm ý chưa vững, hiếu kỳ, đi hộ niệm thử… thường thường làm cho tâm hồn của người bệnh chao đảo, phân vân, hay gọi là tâm tâm bất tương ứng.
Chính vì thế, nếu chúng ta nghiên cứu nhiều đạo lý khác nhau, đem những lý đạo đó khai thị cho người bệnh thì sẽ không hợp với con đường thẳng tắt vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Vì lý do này, mà chư Tổ thường dạy, hộ niệm cho người bệnh vãng sanh, chúng ta không nên khai thị này nọ. Chữ “Khai Thị” này có nghĩa là giảng giải nhiều đạo lý cao siêu cho người bệnh.
Còn chúng ta thường nói khai thị cho người bệnh, thì chữ “Khai Thị” này có nghĩa khác. Đây là sự hướng dẫn, nhắc nhở, hóa gỡ những điều rối rắm của người bệnh ra, giải tỏa những cái khó khăn, vướng chấp của người bệnh đó. Còn lúc đó mà chúng ta đòi khai mở trí huệ, rồi chỉ Tâm thấy Tánh gì đó cho người bệnh, thì thường làm cho họ đã rối lại bị rối thêm. Nhiều người vì nghe pháp không kỹ, cho rằng ngài Tịnh Không dạy hộ niệm không cần khai thị gì cả. Đây là một sự hiểu lầm! Thực ra, có người hỏi Ngài rằng:
– Hộ niệm chúng ta có cần khai thị những đạo lý gì cao siêu không?
Ngài trả lời:
– Không có khai thị đạo lý gì cao siêu cả.
Nghe pháp mà cắt trước, bỏ sau, nhiều khi chúng ta bị lầm lẫn. Chư Tổ thường dạy chúng ta dùng tâm lý khéo léo khuyến tấn, nhắc nhở, giúp người bệnh vững tin niệm Phật cầu vãng sanh. Dùng tâm lý khéo léo khuyến tấn, nhắc nhở… chính là sự khai thị cho người bệnh. Đừng nên đem những đạo lý cao diệu, lý luận siêu huyền nói với người bệnh mà làm cho họ bị rối. Nhiều người nghiên cứu qua loa, nghe pháp chưa trọn, vội vã nói rằng Hòa Thượng Tịnh-Không cấm khai thị khi hộ niệm, thành ra có nhiều cuộc hộ niệm rất lợt lạc, người hộ niệm cứ đến ngồi bên người bệnh niệm: “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật…”, đến hết giờ đứng lên hồi hướng công đức rồi ra về. Hộ niệm cách này, 100 người chưa chắc gì tìm ra được 1 người sau khi xả bỏ báo thân lưu lại tướng lành tốt đẹp.
Còn chúng ta hiểu rằng, khai thị là tìm cách giải tỏa những nỗi lo âu, nâng đỡ tâm lý của người bệnh lên, hóa gỡ những điều khó khăn, hướng dẫn họ buông bỏ những vướng chấp đi, giúp cho người ta nhiếp tâm niệm Phật cầu vãng sanh… Cách khai thị này rất tốt, rất hữu hiệu, nhờ thế mới có thể giúp cho hàng phàm phu vượt thoát ách nạn của nghiệp chướng, vượt qua bệnh khổ mà vãng sanh Tịnh-Độ. Ở Việt Nam chúng ta, nhiều ban hộ niệm nhờ ứng dụng cách khai thị này mà xác suất hộ niệm thành công có khi lên tới 90%. Nghĩa là, hộ niệm cho 100 người, thì có tới 90 người ra đi hiện ra tướng lành bất khả tư nghì. Vô cùng vi diệu!
Chính vì thế, khi học đạo, chúng ta cần nghiên cứu cẩn thận mới được, đừng nên xem lướt qua mà ứng dụng sai lệch, tạo nên nhiều hậu quả oan uổng. Ngày hôm qua chúng ta nói, “Người hộ niệm cần phải nắm vững nhiều lý đạo cao siêu để khai thị cho người bệnh sớm khai ngộ”, thì ai cũng thấy điều này không đúng!… Người đang tỉnh táo như thế này, được nghe pháp nhiều lần, được giảng lên giảng xuống, giảng ra giảng vô, giảng tới giảng lui suốt đời, nhưng nhiều khi không khai ngộ nổi, thì làm sao một người bệnh đang nằm chèo queo, khổ sở vô cùng, nhức đầu như búa bổ, thân mình đau như cắt mà có thể khai ngộ được? Bên cạnh đó oán thân trái chủ báo hại, nghiệp chướng đang hiện hành bức bách… làm sao mà người ta khai ngộ đây?!…
Vì thế, tu hành cần phải khế hợp với căn tánh mới có được sự thành tựu. Hộ niệm cho người phàm phu hoàn toàn khác với khi đến niệm Phật chia phước trước một vị thượng căn thượng trí đi vãng sanh. Hộ niệm cho một người nghiệp sâu trí độn hoàn toàn khác với sự trợ duyên cho một vị chân chánh tu hành chứng quả, hoặc người niệm Phật đã “Nhất Tâm Bất Loạn”, đã tự vững đường vãng sanh.
Có nhiều người nêu ý kiến rằng, tu hành chỉ cần trở về với Chơn Tâm thì “Minh Tâm Kiến Tánh, Kiến Tánh Thành Phật”, chứ cần gì phải phải hộ niệm để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc? Cần gì phải chờ đến chết mới được vãng sanh thành đạo? Ngài Tịnh Không trả lời:
– Chư vị giỏi quá thì cứ ở đây mà khai ngộ để “Minh Tâm Kiến Tánh, Kiến Tánh Thành Phật”. Còn tôi dở quá, ở đây muốn khai hoài mà khai không được. Thôi thì, tôi thành tâm niệm Phật, nhờ A-Di-Đà Phật tiếp độ đưa về Tây-Phương Cực-Lạc, rồi nhờ Ngài khai giùm cho tôi, một đời bất thoái thành Phật vậy.
Xin thưa với chư vị, vãng sanh về Tịnh-Độ là dùng Tín-Nguyện-Hạnh đầy đủ mà một đời này chúng ta được đi thẳng về Tây-Phương Cực-Lạc. Về tới Tây-Phương Cực-Lạc rồi, không khai cũng phải khai, không ngộ cũng phải ngộ, không thành đạo cũng phải thành đạo, không biết lý đạo cao siêu cũng phải biết lý đạo cao siêu. Thực ra, về được Tây-Phương Cực-Lạc rồi thì một đời viên thành Phật Đạo. Thành đạo rồi thì còn lý đạo gì nữa mà ở đây lo tìm với kiếm, mà lý với luận…
Hiểu được như vậy, xin chư vị tin tưởng vững vàng, quyết lòng đi thẳng về Tây-Phương Cực-Lạc bằng cái tâm chí thành chí kính, để một đời này thành tựu đạo quả, thoát khỏi thân phận phàm phu nhé.
Nam Mô A-Di-Đà Phật.